Thứ năm 18/04/2024 13:24

Nghiên cứu khoa học của tổ chức Công đoàn kết quả và một số vấn đề đặt ra

Nghiên cứu - TS. NHẠC PHAN LINH - Phó Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn

Nghị quyết số 01/NQ-ĐCT ngày 18/9/2015 của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn (TLĐ) về “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, hoạt động khoa học và công nghệ của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” sau một thời gian triển khai, đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên, cũng đặt ra một số tồn tại, hạn chế, đòi hỏi sớm có giải pháp.
Nghiên cứu khoa học của tổ chức Công đoàn kết quả và một số vấn đề đặt ra
Khảo sát sản phẩm ứng dụng kết quả nghiên cứu sáng tạo về KHCN tại Công ty TNHH Kỹ thuật máy bay (VAECO), TP. Hà Nội. Ảnh: Viện CNCĐ.

1. Kết quả hoạt động khoa học của tổ chức Công đoàn giai đoạn 2015 - 2020

Về số lượng: Trong giai đoạn 2015 - 2020, tổng số nhiệm vụ khoa học công nghệ (KHCN) trong toàn hệ thống Công đoàn về công nhân và công đoàn được thực hiện là 454 hoạt động. Trong đó, đề tài, nhiệm vụ cấp nhà nước là 55 công trình (chiếm 12,1%); cấp TLĐ 114 công trình (25,1%); cấp tỉnh/bộ/ ngành 38 công trình (8,4%); cấp cơ sở 199 công trình (43,8%); nhiệm vụ hợp tác quốc tế là 48 hoạt động (10,6%).

Số lượng công trình, nhiệm vụ KHCN khi tính trung bình theo tổng số nhân lực của các đơn vị có sự chênh lệch lớn. Trong bốn đầu mối KHCN của Công đoàn Việt Nam, Viện Công nhân và Công đoàn có số lượng nhiệm vụ nghiên cứu cao nhất với 3,53 công trình/người. Thứ hai là Trường Đại học Công đoàn với 0,50 công trình/người. Thứ ba là Viện Khoa học An toàn và Vệ sinh lao động 0,36 công trình/người. Thấp nhất là Trường Đại học Tôn Đức Thắng 0,09 công trình/người.

Về chất lượng: Các nghiên cứu đã tập trung vào một số vấn đề lớn, có tính dự báo, cũng như những vấn đề cụ thể việc làm, tiền lương, đời sống của CNVCLĐ; những vấn đề về mô hình tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của các cấp Công đoàn,… Nhiều nội dung, kết quả nghiên cứu đã được từng bước ứng dụng trong thực tiễn, cung cấp căn cứ, dữ liệu cho Đoàn Chủ tịch TLĐ xây dựng, ban hành các chương trình, kế hoạch, chính sách, đề án quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động điều hành, quản lý của TLĐ.

Tiêu biểu như các nghiên cứu đã cung cấp thông tin góp phần xây dựng ban hành các nghị quyết về chất lượng bữa ăn ca; về nâng cao phúc lợi cho đoàn viên và NLĐ; đề án thí điểm mô hình liên kết công đoàn ngành bán lẻ tại Việt Nam giai đoạn 2021-2023; hướng dẫn đánh giá xếp loại chất lượng hoạt động CĐCS, Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở; cung cấp cơ sở khoa học để TLĐ xây dựng kế hoạch phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS; cung cấp tài liệu xây dựng Điều lệ Công đoàn Việt Nam khóa XII; cung cấp thông tin, cơ sở lý luận, thực tiễn để TLĐ tham gia sửa đổi Bộ luật Lao động 2019…

Nghiên cứu khoa học của tổ chức Công đoàn kết quả và một số vấn đề đặt ra
Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học để TLĐ xây dựng kế hoạch phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS. Trong ảnh: Lãnh đạo LĐLĐ TP. Hạ Long (Quảng Ninh) trao quyết định thành lập CĐCS. Ảnh: LĐLĐ TP. Hạ Long.

2. Một số vấn đề đặt ra

Một là, thiếu những nghiên cứu lớn, chuyên sâu về giai cấp công nhân, tổ chức Công đoàn. Các nghiên cứu nhỏ lẻ, rời rạc. Chủ đề nghiên cứu ít tính mới, ít tính sáng tạo. Thiếu các nghiên cứu lớn, dài kỳ, bao quát các vấn đề liên quan đến lao động, việc làm, đời sống của NLĐ, cũng như về vai trò, chức năng của tổ chức Công đoàn. Thiếu một hệ thống cơ sở dữ liệu có độ tin cậy, cập nhật về công nhân, đoàn viên và tổ chức Công đoàn để làm cơ sở cung cấp dữ liệu thứ cấp cho các nghiên cứu, cũng như để đối chứng, so sánh giữa các giai đoạn, giữa các loại hình.

Hai là, nhiều nghiên cứu bị chậm tiến độ. Một số nghiên cứu do Thường trực Đoàn Chủ tịch TLĐ đặt hàng để phục vụ xây dựng chủ trương, chính sách nhưng lại nghiệm thu sau khi đã ban hành chính sách. Một số báo cáo khoa học lớn, cụ thể như các cuộc khảo sát định kỳ hằng năm về tiền lương, việc làm, thu nhập, đời sống của NLĐ và hoạt động của tổ chức Công đoàn không được tổ chức thẩm định về mặt khoa học và tiến hành công bố công khai, dẫn đến những câu hỏi về ý nghĩa của nghiên cứu, cũng như chất lượng nghiên cứu.

Ba là, năng lực cán bộ nghiên cứu khoa học (NCKH) còn hạn chế. Năng lực của một số cán bộ nghiên cứu chưa đáp ứng yêu cầu cả về trình độ chuyên môn và phương pháp NCKH. Tổ chức KHCN chưa thường xuyên tổ chức tập huấn về kỹ năng, phương pháp nghiên cứu, tổ chức thực hiện NCKH. Số lượng công bố, chia sẻ kết quả NCKH, kinh nghiệm ứng dụng thực tiễn còn ít.

Bốn là, cơ cấu tổ chức và lực lượng nghiên cứu trong các đơn vị khoa học còn bất cập. Một số đơn vị nghiên cứu có lực lượng chuyên gia, lãnh đạo mỏng (cả cấp đơn vị và cấp phòng); thiếu cán bộ khoa học có trình độ cao, nhiều kinh nghiệm; đội ngũ kế cận còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, rất thiếu kinh nghiệm… Khó khăn trong tuyển sinh các ngành về lao động, Công đoàn, chất lượng đầu vào thấp, không tuyển được cán bộ nghiên cứu giỏi, cũng là một nguyên nhân đáng kể.

Nghiên cứu khoa học của tổ chức Công đoàn kết quả và một số vấn đề đặt ra
Công nghệ sản xuất tự động hóa được áp dụng ở nhiều công đoạn tại Nhà máy Yoshino Gypsum Việt Nam (Bà Rịa-Vũng Tàu). Ảnh: Trà Ngân.

Năm là, cơ chế, chính sách chưa thực sự khơi dậy tiềm năng, tập hợp trí tuệ nguồn nhân lực KHCN. Hiện nay, chưa có chính sách rõ ràng nhằm khơi dậy tiềm năng, tập hợp trí tuệ của đội ngũ cán bộ và đoàn viên công đoàn trong hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công nhân, Công đoàn. Chưa có các giải thưởng, hình thức khen thưởng về KHCN của tổ chức Công đoàn.

Sáu là, thiếu cơ chế, chính sách, tài chính tăng cường hoạt động khoa học. Số lượng các đề tài, đề án, báo cáo khoa học đặt hàng định kỳ hằng năm duy trì chỉ trên dưới 10 nhiệm vụ cấp TLĐ, với một khoản kinh phí trung bình trong khoảng từ 200 - 300 triệu đồng. Kinh phí ngân sách TLĐ cấp cho hoạt động KHCN hầu như không có sự đầu tư tăng cường mang tính đột phá qua nhiều năm. Mặc dù Nghị quyết 01 cho phép đến 5% ngân sách cho hoạt động nghiên cứu lý KHCN, nhưng lại không được đề cập trong hướng dẫn lập dự toán của các đơn vị, mà chỉ có mục chi về đào tạo, bồi dưỡng.

Bảy là, công tác quản lý khoa học (QLKH) và năng lực cán bộ làm công tác tham mưu, tư vấn, QLKH cấp TLĐ còn nhiều bất cập. Cán bộ làm công tác QLKH còn thiếu, mỏng cả về số lượng, lẫn kinh nghiệm chuyên môn QLKH và trình độ học thuật. Việc đưa chức năng QLKH từ các viện nghiên cứu (vốn có truyền thống, kinh nghiệm và nguồn lực), chuyển về ban chuyên môn TLĐ, làm phát sinh yếu tố không thuận lợi, trong đó có vấn đề xúc tiến các chương trình liên kết, phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về KHCN như Bộ KHCN, Bộ Tài chính.., hay với các đầu mối học thuật lớn như Hội đồng Lý luận Trung ương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam..; cũng như làm chậm tiến độ đề xuất, triển khai, phát sinh thủ tục phê duyệt, đánh giá, nghiệm thu các sản phẩm nghiên cứu. Đặc biệt là vấn đề hành chính hóa thủ tục quy trình KHCN tác động lớn đến sự chủ động của các tổ chức KHCN trong hoạt động thực tiễn của đơn vị.

Tám là, công tác thông tin, phối hợp, mở rộng sự hợp tác NCKH còn hạn hẹp. Công tác thông tin, báo cáo, phổ biến kết quả nghiên cứu còn nhiều hạn chế. Hoạt động hội nhập quốc tế về KHCN chưa được đẩy mạnh, triển khai thiếu chiều sâu. Điều này dẫn đến có thể làm mất cơ hội tận dụng các nguồn tài trợ, nguồn lực về tài chính, tri thức, kỹ năng, phương pháp khoa học từ các tổ chức quốc tế có uy tín.

Nghiên cứu khoa học của tổ chức Công đoàn kết quả và một số vấn đề đặt ra
Một số nghiên cứu đã tập trung vào những vấn đề cụ thể như việc làm, tiền lương, đời sống của công nhân, NLĐ. Trong ảnh: Cán bộ LĐLĐ TP. Hà Nội trao quà động viên lao động nữ có hoàn cảnh khó khăn tại Công ty TNHH Bình Yên (quận Thanh Xuân, Hà Nội). Ảnh: Diệp Thảo.

Chín là, việc thực hiện chủ trương về NCKH chưa đồng bộ. Nhiều cấp Công đoàn chưa ban hành nghị quyết, kế hoạch, hướng dẫn triển khai Nghị quyết số 01 của Đoàn Chủ tịch TLĐ; chưa có hướng dẫn thực hiện về nguồn lực, kinh phí; định mức, quy định, chỉ tiêu cho từng loại hình đơn vị; thiếu cơ chế đặt hàng giao chỉ tiêu nghiên cứu. Nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố, Công đoàn ngành cho rằng NCKH chủ yếu dành cho khối viện, khối trường.

Mười là, có sự chưa thống nhất cách tiếp cận về NCKH và QLKH. Một số nhiệm vụ NCKH được xác định, giao, quản lý, triển khai như một nhiệm vụ chuyên môn của các ban, đơn vị, thiếu tính đặc trưng của một công trình khoa học. Hội đồng khoa học, các hội đồng đánh giá nghiệm thu tập trung nhiều cán bộ quản lý, ít nhà khoa học của tổ chức Công đoàn. Điều này dẫn đến ranh giới mờ nhạt giữa hoạt động nghiên cứu và hoạt động quản lý. Về nguyên tắc, NCKH nhằm cung cấp thông tin khách quan, tin cậy, là nền tảng cho các gợi ý, đề xuất, tư vấn giải pháp từ góc độ học thuật. Việc hoạch định chính sách, xây dựng, ban hành, triển khai các đề án, chương trình, kế hoạch là việc của cơ quan quản lý trên cơ sở thông tin, sản phẩm KHCN đã được cung cấp.

Bên cạnh những vấn đề trên, thời gian gần đây, nhiều chủ trương, nghị quyết mới của Đảng về lĩnh vực KHCN được ban hành, trong đó, đặt ra yêu cầu “quan tâm tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công nhân, Công đoàn trong tình hình mới”, “thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh KHCN theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 12/6/2021 của Bộ Chính trị về “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới”.

Như vậy, xét từ cả góc độ nhu cầu chủ quan và yêu cầu khách quan, TLĐ cần sớm ban hành một nghị quyết mới của Ban Chấp hành TLĐ (Khóa XII) về đẩy mạnh công tác NCKH, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ nhiệm vụ của tổ chức Công đoàn trong tình hình mới.

Ký kết Quy chế phối hợp công tác để phát huy hiệu quả vai trò của Công đoàn Ký kết Quy chế phối hợp công tác để phát huy hiệu quả vai trò của Công đoàn

Để phát huy hiệu quả vai trò của tổ chức Công đoàn, Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) tỉnh Thừa Thiên Huế và UBND tỉnh Thừa ...

Thực hiện Nghị quyết số 20 của Đảng: 5 bài học kinh nghiệm qua 14 năm triển khai Thực hiện Nghị quyết số 20 của Đảng: 5 bài học kinh nghiệm qua 14 năm triển khai

Nghị quyết số 20/NQ-TW ngày 28/01/2008 của BCH Trung ương Đảng (Khóa X) về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam ...

“Cần đổi mới mạnh mẽ, thực chất tổ chức và hoạt động Công đoàn trong tình hình mới” “Cần đổi mới mạnh mẽ, thực chất tổ chức và hoạt động Công đoàn trong tình hình mới”

Đó là nội dung được Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam Ngọ Duy Hiểu nhấn mạnh tại Hội nghị quán triệt, triển khai thực ...

Chia sẻ
In bài viết

Tin cùng chuyên mục

Đồng chí Tôn Đức Thắng: Từ người thợ máy đến thủ lĩnh công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn

Công đoàn -

Đồng chí Tôn Đức Thắng: Từ người thợ máy đến thủ lĩnh công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn

Đồng chí Tôn Đức Thắng (20/8/1888 - 30/3/1980) sống 92 năm tuổi đời, có gần 70 năm hoạt động cách mạng, 17 năm bị thực dân, đế quốc giam cầm, tù đày và đã giữ nhiều trọng trách trong Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội.

Thực trạng công tác ATVSLĐ và những vấn đề cần nghiên cứu giai đoạn 2025-2030

Nghiên cứu -

Thực trạng công tác ATVSLĐ và những vấn đề cần nghiên cứu giai đoạn 2025-2030

Tổ chức Công đoàn là một chủ thể quan trọng trong việc tham gia bảo đảm an toàn và sức khỏe cho người lao động.

Vấn đề thành lập tổ chức khác của người lao động tại doanh nghiệp

Nghiên cứu -

Vấn đề thành lập tổ chức khác của người lao động tại doanh nghiệp

Công đoàn Việt Nam từ khi thành lập đến nay luôn là một bộ phận khăng khít của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động. Việc trong thời gian tới có thể xuất hiện tổ chức khác của người lao động tại doanh nghiệp đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết.

TS. Bùi Sỹ Lợi đề xuất 6 nội dung cần sửa đổi trong Luật Công đoàn

Hoạt động Công đoàn -

TS. Bùi Sỹ Lợi đề xuất 6 nội dung cần sửa đổi trong Luật Công đoàn

Theo TS. Bùi Sỹ Lợi, xuất phát từ yêu cầu khắc phục một số hạn chế, bất cập của Luật Công đoàn, đáp ứng hoạt động của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới, việc sửa đổi Luật Công đoàn là rất cần thiết.

Cần hơn nữa vai trò phản biện chính sách và đồng quyết định của công đoàn

Công đoàn -

Cần hơn nữa vai trò phản biện chính sách và đồng quyết định của công đoàn

Với vai trò là tổ chức đại diện cho người lao động (NLĐ), công đoàn (CĐ) thực hiện nhiệm vụ của mình thông qua ba hình thức sau: chăm lo – tiếng nói – đồng quyết định, gọi là ba nấc thang đại diện.

An Giang: Khát vọng vươn lên từ phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”

Hoạt động Công đoàn -

An Giang: Khát vọng vươn lên từ phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”

Từ phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, LĐLĐ tỉnh An Giang đã phát hiện hàng loạt nhân tố tiêu biểu, xuất sắc nhất. Bằng niềm đam mê nghiên cứu khoa học, sáng tạo không ngừng, họ đã cống hiến, làm lợi hàng tỷ đồng cho cơ quan, đơn vị.

Bản tin công nhân: Người lao động nghẹn ngào khi mất việc ở tuổi 50 Bản tin công nhân

Bản tin công nhân: Người lao động nghẹn ngào khi mất việc ở tuổi 50

Bản tin công nhân ngày 17/4: Người lao động nghẹn ngào khi mất việc ở tuổi 50; Doanh nghiệp đảm bảo nghỉ lễ và đơn hàng; Có việc làm, thu nhập, công nhân chi tiêu thoải mái hơn; Tuổi nghỉ hưu của lao động nữ năm 2024 là bao nhiêu?

Lịch nghỉ 30/4-1/5 của người lao động đi làm thứ 7 Tôi công nhân

Lịch nghỉ 30/4-1/5 của người lao động đi làm thứ 7

Theo lịch thông thường, nếu người lao động làm việc tại doanh nghiệp vẫn làm việc ngày thứ Bảy thì sẽ chỉ được nghỉ hai ngày 30/4 - 1/5 và không được nghỉ bù vào các ngày khác.

Talk Công đoàn: Trả lời câu hỏi vào nghiệp đoàn để được gì? Talk Công đoàn

Talk Công đoàn: Trả lời câu hỏi vào nghiệp đoàn để được gì?

Đồng chí Tạ Thị Mỹ Thanh, Chủ tịch Công đoàn ngành Giao thông Vận tải Hà Nội chia sẻ về hoạt động của Nghiệp đoàn Lái xe ô tô công nghệ Hà Nội và kinh nghiệm thu hút lao động phi chính thức tham gia công đoàn.

Cách tính lương mới của giáo viên từ ngày 1/7/2024 Pháp luật lao động

Cách tính lương mới của giáo viên từ ngày 1/7/2024

Bảng lương mới của giáo viên năm 2024 sẽ thay đổi theo cải cách tiền lương từ ngày 1/7/2024.
Bản tin công nhân: Cận dịp nghỉ lễ, nhóm ngành nào có nhu cầu tuyển dụng lớn nhất? Bản tin công nhân

Bản tin công nhân: Cận dịp nghỉ lễ, nhóm ngành nào có nhu cầu tuyển dụng lớn nhất?

Bản tin công nhân ngày 16/4: Thống nhất tăng lương tối thiểu từ ngày 01/7/2024; Cận dịp nghỉ lễ, nhóm ngành nào có nhu cầu tuyển dụng lớn nhất? Công nhân hăng say thi công sân bay Long Thành giữa nắng nóng 40 độ...

3 bước dễ dàng để tham gia Cuộc thi tìm hiểu công tác an toàn, vệ sinh lao động Video

3 bước dễ dàng để tham gia Cuộc thi tìm hiểu công tác an toàn, vệ sinh lao động

Cuộc thi "CNVCLĐ tìm hiểu về công tác an toàn, vệ sinh lao động" được tổ chức theo hình thức thi trực tuyến trên Tạp chí điện tử Lao động và Công đoàn (laodongcongdoan.vn).

Đọc thêm

Bảo đảm hoạt động công đoàn về công tác cán bộ và góp ý sửa đổi Luật Công đoàn

Nghiên cứu -

Bảo đảm hoạt động công đoàn về công tác cán bộ và góp ý sửa đổi Luật Công đoàn

Công tác cán bộ là công việc quan trọng của Đảng và các đoàn thể. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, mà còn chú trọng đến xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn thể nói chung và rèn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ công đoàn nói riêng.

Bài 16: Thách thức và giải pháp đổi mới hoạt động nữ công công đoàn trong tình hình mới

Nghiên cứu -

Bài 16: Thách thức và giải pháp đổi mới hoạt động nữ công công đoàn trong tình hình mới

Với tỷ lệ chiếm gần 50% lực lượng lao động, lao động nữ (LĐN) ngày càng khẳng định vị thế, vai trò của mình trên mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội đất nước. Việc thu hút lực lượng LĐN gia nhập Công đoàn Việt Nam (CĐVN) được coi là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Công đoàn nói chung, của Ban Nữ công công đoàn (NCCĐ) các cấp nói riêng. Điều này đòi hỏi hoạt động NCCĐ các cấp thời gian tới cần có nhiều đổi mới để tiếp cận ngày một sát hơn với nhu cầu, nguyện vọng của LĐN.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và sứ mệnh của Công đoàn Việt Nam

Nghiên cứu -

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và sứ mệnh của Công đoàn Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm lớn lao, sâu sắc đối với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn.

Tổ chức Công đoàn ngày càng phải hoạt động chuyên nghiệp, năng động, hiệu quả hơn

Nghiên cứu -

Tổ chức Công đoàn ngày càng phải hoạt động chuyên nghiệp, năng động, hiệu quả hơn

Nghị quyết số 02 của Bộ Chính trị đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu nhằm xây dựng, củng cố tổ chức Công đoàn theo hướng ngày càng chuyên nghiệp, năng động, hiệu quả hơn.

Bàn giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn lớn mạnh

Kỹ năng cán bộ công đoàn -

Bàn giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn lớn mạnh

Cán bộ là gốc rễ của mọi sự thành bại của tổ chức và điều này đã chứng minh qua thực tiễn. Trước những yêu cầu của thời kì mới, nhiệm vụ đặt ra trong xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn (CBCĐ) là gì? Yêu cầu đặt ra đối với vấn đề năng lực, trình độ, chất lượng đội ngũ CBCĐ trong thời gian tới như thế nào? Cần đưa ra giải pháp, kiến nghị gì để xây dựng đội ngũ CBCĐ ngày càng lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đoàn viên, người lao động và bối cảnh hội nhập quốc tế. Đây là vấn đề tổ chức Công đoàn Việt Nam cần quan tâm thực hiện trong nhiệm kỳ 2023-2028.

Vai trò đại diện cho NLĐ của Công đoàn Việt Nam ở doanh nghiệp chưa có công đoàn

Nghiên cứu -

Vai trò đại diện cho NLĐ của Công đoàn Việt Nam ở doanh nghiệp chưa có công đoàn

Việc đại diện của NLĐ tại doanh nghiệp bao gồm rất nhiều nội dung như đại diện tham gia đảm bảo việc làm, tiền lương, hợp đồng lao động, đào tạo nghề, đối thoại, thương lương, ký kết thỏa ước lao động tập thể, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất, an toàn, vệ sinh lao động, BHXH, BHYT, lãnh đạo đình công...

Bài 2: Các giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh

Nghiên cứu -

Bài 2: Các giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh

Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh bằng tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc, lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho giai cấp công nhân; đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục giác ngộ giai cấp.

Bài 1: Quan niệm thế nào về giai cấp công nhân trong cơ cấu xã hội - giai cấp hiện nay

Nghiên cứu -

Bài 1: Quan niệm thế nào về giai cấp công nhân trong cơ cấu xã hội - giai cấp hiện nay

Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước đến năm 2030 và 2045: “Đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao” được Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Những vấn đề đặt ra sau 10 năm thực hiện Luật Công đoàn 2012

Nghiên cứu -

Những vấn đề đặt ra sau 10 năm thực hiện Luật Công đoàn 2012

Luật Công đoàn 2012 là cơ sở pháp lý quan trọng để Công đoàn Việt Nam tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát huy vai trò và ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống chính trị - xã hội. Sau hơn 10 năm áp dụng, Luật Công đoàn 2012 đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập từ thực tiễn, đặt ra yêu cầu đòi hỏi cần tiếp tục sửa đổi hoàn thiện nhằm đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật và hội nhập kinh tế quốc tế.

Yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn trong tình hình mới

Công đoàn -

Yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn trong tình hình mới

Trong môi trường mới có tham gia của các tổ chức đại diện khác của người lao động, để công đoàn phát huy được vai trò của mình, từ đó duy trì và thu hút đoàn viên, đồng thời tiếp tục xây dựng hình ảnh, uy tín và vị thế của Công đoàn trong xã hội, cán bộ công đoàn đóng vai trò vô cùng quan trọng.