Thúc đẩy hơn nữa quyền của lao động nữ trong doanh nghiệp
Nghiên cứu - 24/08/2022 18:45 ThS. TRẦN THU PHƯƠNG - Ban Nữ công Tổng LĐLĐ Việt Nam
Lãnh đạo Ban Nữ công Tổng Liên đoàn trao đổi với lao động nữ tại Công ty Cổ phần May Chiến Thắng, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái, năm 2020. Ảnh: BNC. |
Về cơ sở pháp lý
Việc công đoàn thúc đẩy thực hiện quyền của LĐN có cơ sở pháp lý vững chắc. Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Bình đẳng giới. Trên cơ sở kế thừa Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020, Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030. Chiến lược đề ra mục tiêu tổng quát là: “Tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới tham gia, thụ hưởng bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước”. Việt Nam cũng đã phê chuẩn hầu hết các công ước quốc tế liên quan đến bình đẳng giới và quyền của phụ nữ.
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Bộ luật Lao động (BLLĐ) 2019 ngoài những quy định chung cho cả lao động nam và LĐN còn có riêng Chương X. “Những quy định riêng đối với LĐN và bảo đảm bình đẳng giới”. BLLĐ 2019 không nêu rõ khái niệm về quyền của công đoàn, song tại Khoản 3, Điều 3 ghi: “Tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của NLĐ tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ trong quan hệ lao động (QHLĐ) thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở bao gồm CĐCS và tổ chức của NLĐ tại doanh nghiệp”.
Quyền của NLĐ bao gồm cả lao động nam và LĐN được quy định tại Khoản 1, Điều 5, BLLĐ năm 2019. Quyền của đoàn viên công đoàn được quy định tại Điều 18, Luật Công đoàn 2012. Quyền của đoàn viên còn được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 2, Điều lệ Công đoàn Việt Nam 2020.
Quy định của Tổng LĐLĐ Việt Nam
Điều lệ Công đoàn Việt Nam qua các kỳ Đại hội đều dành riêng một điều quy định về công tác vận động nữ CNVCLĐ. Điều lệ Công đoàn Việt Nam khóa XII dành riêng Chương VII về Công tác nữ công. Theo đó xác định “Công tác nữ công là nhiệm vụ của BCH công đoàn mỗi cấp, nhằm phát huy vai trò và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của LĐN theo quy định của pháp luật”.
Diễn đàn về an sinh xã hội và quyền lợi bảo hiểm cho lao động nữ tại các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Ninh năm 2020. Ảnh: BNC. |
Quy định của Tổng LĐLĐ Việt Nam
Điều lệ Công đoàn Việt Nam qua các kỳ Đại hội đều dành riêng một điều quy định về công tác vận động nữ CNVCLĐ. Điều lệ Công đoàn Việt Nam khóa XII dành riêng Chương VII về Công tác nữ công. Theo đó xác định “Công tác nữ công là nhiệm vụ của BCH công đoàn mỗi cấp, nhằm phát huy vai trò và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của LĐN theo quy định của pháp luật”.
Hướng dẫn thi hành Điều lệ Công đoàn Việt Nam cũng đã nêu rõ quy định về thành lập, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Nữ công quần chúng (BNCQC). Theo đó, CĐCS ở các doanh nghiệp có từ 10 đoàn viên nữ trở lên được thành lập BNCQC để tham mưu giúp BCH công đoàn cùng cấp xây dựng chương trình, nội dung, kinh phí tổ chức các hoạt động nữ công. Tại các doanh nghiệp có dưới 10 nữ đoàn viên thì chỉ định một Ủy viên BCH hoặc một đoàn viên nữ phụ trách công tác tham mưu tổ chức các hoạt động nữ công.
Sau tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 6b/NQ-TLĐ, BCH Tổng Liên đoàn đã ban hành Kết luận số 1500b/KL-TLĐ ngày 08/01/2021 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 6b/NQ-BCH ngày 29/01/2011 của BCH Tổng Liên đoàn về công tác vận động nữ CNVCLĐ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và Chỉ thị 03/CT-TLĐ ngày 18/8/2010 của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn về việc tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong nữ CNVCLĐ trong tình hình mới, đề ra nhiều giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ quyền của LĐN.
Tổng Liên đoàn phối hợp triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ 2019 về điều kiện lao động và QHLĐ, đặc biệt là Mục 2 về bảo đảm bình đẳng giới và những quy định riêng đối với LĐN; Chỉ thị 09/CTTTg ngày 22/5/2015 của Chính phủ về việc đẩy mạnh thực hiện các giải pháp giải quyết vấn đề trường, lớp mầm non ở các KCN, KCX và Nghị định 105/2020/NĐCP ngày 08/9/2020 của Chính phủ quy định chính sách phát triển giáo dục mầm non.
Nghị quyết Đại hội XII Công đoàn Việt Nam cũng xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng là “Tập trung nguồn lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ đại diện, chăm lo lợi ích, bảo vệ quyền lợi của đoàn viên, NLĐ”, “Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp công đoàn trong tiến trình thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, đổi mới hoạt động nữ công. Tập trung tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các quyền của LĐN; nghiên cứu, tham mưu giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc của LĐN, hỗ trợ LĐN có việc làm bền vững, môi trường làm việc an toàn, bình đẳng...”.
Chương trình hành động của Tổng Liên đoàn thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 02/NQ-TW ngày 12/6/2021 của Bộ Chính trị về "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới" đề ra chỉ tiêu phấn đấu có 90% trở lên doanh nghiệp Nhà nước và 70% trở lên doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước tổ chức đối thoại tại nơi làm việc; 95% trở lên doanh nghiệp Nhà nước và 60% trở lên doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước tổ chức hội nghị NLĐ và các hình thức dân chủ khác theo quy định của pháp luật... thể hiện quyết tâm trong việc bảo vệ quyền của NLĐ, nhất là NLĐ trong doanh nghiệp, bao gồm LĐN.
Diễn đàn về an sinh xã hội và quyền lợi bảo hiểm cho lao động nữ tại các Khu công nghiệp tỉnh Bình Dương năm 2020. Ảnh: BNC. |
Thúc đẩy thực hiện quyền của LĐN trong doanh nghiệp
Theo báo cáo của Tổng LĐLĐ Việt Nam, tính đến ngày 30/6/2020, cả nước có 126.541 CĐCS với 10.535.837 đoàn viên công đoàn; trong đó đoàn viên nữ có 5.877.507 người, chiếm 56%. Ước tính có 3,6 triệu lao động đang làm việc tại các KCN, KCX trên cả nước, trong đó số LĐN chiếm khoảng 60% và chiếm tỷ lệ cao (70 - 80%) trong một số ngành nghề như: Dệt may, da giày, thủy sản,…
Các cấp công đoàn thường xuyên quan tâm nâng cao tỷ lệ nữ tham gia BCH công đoàn các cấp và việc chỉ đạo, thành lập BNCQC. BCH Tổng Liên đoàn ban hành Nghị quyết số 12b/NQ-BCH ngày 12/7/2017 về BNCQC khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước, thực hiện đồng bộ các giải pháp, đẩy mạnh việc thành lập, kiện toàn gắn với nâng cao chất lượng hoạt động của BNCQC tại các doanh nghiệp. Đến tháng 11/2020 có 72.044 BNCQC với 252.148 Ủy viên.
Từ tham mưu của BNCQC, nhiều ý kiến đề xuất của tổ chức Công đoàn đã được các cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu, góp phần quan trọng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đoàn viên, NLĐ như tham gia đóng góp ý kiến sửa đổi Luật Công đoàn 2012, BLLĐ 2012, BLLĐ 2019, Luật BHXH 2014, Luật ATVSLĐ…
Nhiều ý kiến của Công đoàn được tiếp thu khi Chính phủ ban hành Nghị định 85/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của BLLĐ về chính sách đối với LĐN, như quy định về doanh nghiệp sử dụng nhiều LĐN, về phòng vắt trữ sữa mẹ tại nơi làm việc, về đại diện của LĐN tại doanh nghiệp nơi đã có tổ chức Công đoàn là CĐCS…
Trong quá trình tham gia sửa đổi BLLĐ 2019, Tổng Liên đoàn đã tham gia đề xuất bổ sung một số nội dung đảm bảo bình đẳng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của lao động nam và LĐN trong công việc và trong gia đình theo nguyên tắc bình đẳng giới. Tổng Liên đoàn cũng đã tham gia hiệu quả vào Nghị định 145/NĐ-CP ngày 14/12/2000 của Chính phủ, nhất là các quy định tại Chương IX. LĐN và bảo đảm bình đẳng giới, làm rõ quy định về phòng vắt trữ sữa, bắt buộc doanh nghiệp có từ 1.000 LĐN trở lên phải lắp đặt phòng vắt trữ sữa tại nơi làm việc... Tổng Liên đoàn đã triển khai nghiên cứu 05 đề tài về những vấn đề cấp thiết đối với LĐN như: Chăm sóc sức khỏe sinh sản cho LĐN; vấn đề đời sống hôn nhân gia đình của CNLĐ; vấn đề nhà trẻ mẫu giáo…
Niềm vui của nữ công nhân ở xưởng thành hình lốp xe đạp Xí nghiệp Săm lốp xe đạp xe máy, Công ty CP Cao su Đà Nẵng. Ảnh: NGUYỄN VĂN TÍNH. |
Trên cơ sở đề xuất của tổ chức Công đoàn, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án 655/ QĐ-TTg ngày 12/7/2017 về đầu tư xây dựng các thiết chế công đoàn tại các KCN, KCX, trong đó có việc xây dựng nhà trẻ mẫu giáo cho con CNLĐ. Tổng Liên đoàn đã hướng dẫn các cấp công đoàn triển khai thực hiện Đề án 404 của Chính phủ về “Hỗ trợ phát triển nhóm trẻ độc lập tư thục khu vực KCN, KCX đến 2020” phù hợp với điều kiện từng địa phương, đơn vị… Đây là những điều kiện thuận lợi để các cấp công đoàn thúc đẩy việc thực hiện quyền của LĐN trong doanh nghiệp, các hoạt động về giới, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Tổng Liên đoàn còn chỉ đạo các cấp công đoàn trong quá trình thương lượng kí kết TƯLĐTT quan tâm đưa những quy định có lợi hơn cho LĐN so với quy định pháp luật vào TƯLĐTT với các nội dung: Con ốm nặng nghỉ 60 ngày hưởng lương, phát triển phòng vắt trữ sữa mẹ tại nơi làm việc tăng từ 415 phòng/28 tỉnh, thành phố (năm 2018) lên 826 phòng/40 tỉnh thành phố (năm 2020)... Tại những doanh nghiệp phải cắt giảm lao động do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, công đoàn phối hợp với NSDLĐ có giải pháp đảm bảo việc làm và quan tâm hơn đến LĐN mang thai, đang nuôi con nhỏ, hoàn cảnh khó khăn.
Nhiều mô hình được Tổng Liên đoàn triển khai đến CĐCS như: mô hình hỗ trợ LĐN nuôi con bằng sữa mẹ tại nơi làm việc, “Sức khỏe của bạn”, “Trại hè cho con CNLĐ”, “Lễ cưới tập thể”…
Với sự tham gia của tổ chức Công đoàn, tiền lương, thu nhập và đời sống của CNLĐ trong đó có LĐN đã từng bước được cải thiện. Nữ CNLĐ đã được đảm bảo tốt hơn về việc làm, được chia sẻ công việc gia đình từ các thành viên trong gia đình, tạo điều kiện tốt hơn trong việc tiếp cận văn hóa, thông tin, nâng cao chất lượng sức khỏe, đời sống vật chất và tinh thần.
Thúc đẩy cải thiện điều kiện, môi trường làm việc cho người lao động Với sự chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn và các cấp công đoàn, sự tham gia hưởng ứng ... |
Bảo đảm quyền và lợi ích của lao động Việt Nam ở nước ngoài Hoạt động đưa người lao động (NLĐ) và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã có bước phát triển mạnh mẽ ... |
Lâm Đồng: Đối thoại chính sách với hơn 200 doanh nghiệp Ngày 19/8, Liên đoàn Lao động (LĐLĐ), Bảo hiểm xã hội (BHXH) tỉnh và Sở Lao động – Thương binh và xã hội (LĐ-TB&XH) tỉnh ... |
Tin cùng chuyên mục
Công đoàn - 19/09/2024 16:13
Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng
Công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên công đoàn, người lao động có vai trò quan trọng đối với việc góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Ý nghĩa của hoạt động tuyên truyền, vận động này còn góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, tích cực lao động, học tập và công tác, góp phần hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn vững mạnh xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Nghiên cứu - 09/09/2024 13:38
Nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân trong tình hình mới
Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/1/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X nêu rõ “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.
Nghiên cứu - 21/06/2024 16:35
Tình đoàn kết tạo ra quyền lực cho tổ chức
Nhân Tháng Công nhân 2024, TS. Phạm Thị Thu Lan, nhà nghiên cứu quen biết về phong trào công nhân, hoạt động công đoàn (công tác tại Viện Công nhân và Công đoàn) có bài viết về tình đoàn kết và niềm tin của NLĐ, điều sẽ tạo ra quyền lực mềm cho tổ chức Công đoàn. Tạp chí LĐ&CĐ xin giới thiệu với bạn đọc phân tích thú vị và rất đáng suy ngẫm này.
Nghiên cứu - 28/05/2024 15:33
Bài 3: Xây dựng chính sách đồng bộ, hiệu quả cho người lao động tiếp cận, thụ hưởng
Hệ thống chính sách, pháp luật về lao động, việc làm ở nước ta đã được chú trọng xây dựng, hoàn thiện nhưng vấn đề tiếp cận, thụ hưởng chính sách của người lao động còn cần được cải thiện hơn nữa.
Nghiên cứu - 28/05/2024 14:54
Bài 2: Cơ sở xây dựng lực lượng lao động năng suất, tiến bộ
Cơ sở để bảo đảm việc làm, thu nhập, chăm lo đời sống, đáp ứng nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của người lao động (NLĐ) xuất phát từ các tiền đề về tiền lương, phúc lợi về nhà ở, sức khỏe y tế, cải thiện đời sống văn hóa tinh thần, hỗ trợ chăm sóc con em.
Nghiên cứu - 28/05/2024 10:28
Một số đặc điểm về học vấn, chuyên môn của công nhân hiện nay
Với sự nỗ lực, tự học hỏi, rèn luyện, công nhân đã có trình độ học vấn và chuyên môn nghề nghiệp khá cao, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh trong cộng đồng dân tộc thiểu số
- Hành trình thầm lặng và trách nhiệm của người lái xe chở vật liệu nổ công nghiệp
- Vào nghiệp đoàn, người lao động phấn khởi có thu nhập ổn định
- LĐLĐ tỉnh Long An dự chi hơn 40 tỷ đồng chăm lo Tết Nguyên đán 2025
- Những Mái ấm Công đoàn mang nặng nghĩa tình ở Sóc Trăng