Chủ nhật 05/05/2024 11:38

Những vấn đề cần quan tâm khi thực hiện các cam kết về lao động, công đoàn

Nghiên cứu - PGS. TS. Nguyễn An Ninh - Viện CNXH khoa học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh

Việt Nam đã tham gia vào các “Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” (FTA). Một trong các vấn đề đặt ra từ đây là sẽ xuất hiện tổ chức và hoạt động của các công đoàn ngoài bên cạnh Công đoàn hiện nay.
Những vấn đề cần quan tâm khi thực hiện các cam kết về lao động, công đoàn

Tham gia Hiệp định CPTPP sẽ đóng góp vào phát triển bền vững, đồng thời giúp người lao động và các doanh nghiệp cùng được hưởng lợi ích kinh tế một cách công bằng. Ảnh minh họa.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII xác định: “Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức Công đoàn hiện nay”. Để chủ động trước tình hình mới, bài viết đưới đây sẽ bàn thêm về các vấn đề thực tiễn cần được quan tâm giải quyết để đúng với quy định quốc tế và đảm bảo định hướng XHCN của Việt Nam.

Những vấn đề về Công đoàn cần quan tâm khi thực hiện các cam kết về lao động (CKVLĐ).

CKVLĐ liên quan đến cả hai FTA và vấn đề công đoàn “độc lập”

Việt Nam đã ký kết, tham gia CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) và EVFTA (Hiệp định Thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam). Đây là hai Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà các CKVLĐ và quan hệ lao động (QHLĐ) là những nội dung quan trọng. Cả hai hiệp định đều dẫn chiếu và yêu cầu các nước thành viên thực hiện các quy ước về lao động và QHLĐ trong Tuyên bố năm 1998 của ILO chứ không đưa ra những quy định riêng.

Tuy nhiên, ở mỗi Hiệp định, mức độ ràng buộc đối với cam kết lại khác nhau. Đối với CPTPP yêu cầu về lao động là những điều kiện ràng buộc chặt chẽ, trong khi đối với EVFTA tính chất của cam kết mức độ ràng buộc ít hơn và mang tính khuyến khích nhiều hơn. Như vậy thực hiện được các cam kết về lao động và QHLĐ với CPTPP có yêu cầu cao hơn, chặt chẽ hơn EVFTA. Vượt qua nó có nghĩa là về cơ bản đã giải quyết được EVFTA.

Hiện nay, QHLĐ ở Việt Nam được quy định trong Bộ luật Lao động và một số đạo luật khác có liên quan. Hướng điều chỉnh chủ yếu là quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ. Trong khi đó các FTA lại tập trung nhiều hơn vào quan hệ vĩ mô, với hàm ý trách nhiệm quản trị của nhà nước với QHLĐ.

CPTPP có một số yêu cầu chung nhất về QHLĐ là: (i) Khẳng định nghĩa vụ của một nước thành viên ILO đối với quyền tự do liên kết và công nhận một cách thực chất quyền thương lượng tập thể; (ii) Thiết lập một khung khổ luật pháp và thực hiện hiệu quả trong thực tiễn đối với các quy định pháp luật trong việc đảm bảo quyền tự do liên kết và công nhận một cách thực chất quyền thương lượng tập thể; và (iii) Không được trì hoãn hoặc có những hành động nhằm né tránh việc thực thi các cam kết (trong luật pháp và thực tiễn) sau khi Hiệp định có hiệu lực.

Còn EVFTA cũng yêu cầu một cách rõ ràng rằng các bên phải thực hiện 4 Nguyên tắc và Quyền cơ bản trong lao động, trong đó có nguyên tắc về tự do hiệp hội và công nhận thực chất quyền thương lượng tập thể.

Như vậy cả hai FTA đều quan tâm đến việc thực hiện các cam kết về QHLĐ; mà trong đó, một chủ thể mới tham gia điều chỉnh quan hệ này sẽ xuất hiện, là các tổ chức công đoàn “độc lập”.

Những vấn đề cần quan tâm khi thực hiện các cam kết về lao động, công đoàn

Ký Hiệp định Bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVIPA).

Cần sớm quan tâm đến các quy định pháp lý cho hoạt động của một tổ chức công đoàn mới

Khi quan niệm như một quyền của NLĐ và như một chủ thể khách quan tham gia điều chỉnh QHLĐ, các FTA đều nhìn nhận các tổ chức công đoàn như một thiết chế kinh tế - xã hội tự nhiên và cần thiết trong cơ chế của thị trường lao động.

Khi Việt Nam thực hiện các CKVLĐ và QHLĐ của FTA, vấn đề xây dựng khung khổ pháp lý cho “quyền tự do liên kết và thiết chế đại diện” nên nhìn nhận như một nhiệm vụ hữu cơ của Nhà nước trong “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN” và giúp cho việc xúc tiến thực hiện các cam kết FTA.

Những vấn đề cần quan tâm khi thực hiện các cam kết về công đoàn (CKVCĐ)

Sự khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với quan niệm của thế giới về quyền tự do liên kết, tự do hiệp hội

Điều 4, Khoản 1, Luật Công đoàn Việt Nam (2012) ghi nhận: “Quyền công đoàn là quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn của NLĐ, đoàn viên công đoàn và quyền của tổ chức Công đoàn theo quy định của pháp luật và quy định của cơ quan có thẩm quyền”.

Quy định này có điểm khác biệt so với Công ước 87 của ILO ở chỗ, việc thành lập, gia nhập Công đoàn của NLĐ cần phải “theo quy định của pháp luật và quy định của cơ quan có thẩm quyền”. Trong khi đó, ILO lại khẳng định: “NLĐ và NSDLĐ, không phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào, có quyền thành lập và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của mình mà không phải xin phép trước với một điều kiện duy nhất là theo đúng điều lệ của chính tổ chức đó." (Điều 2 Công ước số 87 của ILO).

Những vấn đề cần quan tâm khi thực hiện các cam kết về lao động, công đoàn

Khi Việt Nam tham gia vào các “Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” (FTA) sẽ xuất hiện tổ chức và hoạt động của các công đoàn ngoài bên cạnh Công đoàn hiện nay. Trong ảnh: Hội nghị triển khai Điều lệ và Hướng dẫn thi hành Điều lệ Công đoàn Việt Nam khóa XII do Liên đoàn Lao động tỉnh Lâm Đồng tổ chức.

Quy định và cách làm của Việt Nam hiện nay chưa phù hợp với tinh thần chung về quyền tự do lập hội của NLĐ được quy định tại Công ước số 87 về quyền tự do lập hội và bảo vệ quyền lập hội của ILO. Một nghiên cứu “So sánh luật công ước quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền tự do liên kết” chỉ ra những khác biệt trong quan niệm pháp lý như sau:

Tiêu chí

Công ước quốc tế của ILO và quy định trong CPTPP

Luật lao động và Luật Công đoàn Việt Nam

Về quyền tự do thành lập tổ chức đại diện NLĐ (tổ chức Công đoàn).

NLĐ được tự do thành lập, gia nhập và hoạt động trong các tổ chức Công đoàn mà họ cảm thấy có lợi và bảo vệ được họ trong các QHLĐ không nhất thiết là một tổ chức Công đoàn duy nhất.

NLĐ được tự nguyện gia nhập tổ chức Công đoàn; Công đoàn Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện cho NLĐ trong các QHLĐ.

Về địa vị pháp lý của tổ chức Công đoàn.

Các tổ chức Công đoàn của NLĐ là một tổ chức độc lập, có quyền tự do lựa chọn những hình thức và mục tiêu hoạt động.

Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Về mục đích hoạt động của tổ chức Công đoàn.

Chỉ có mục đích duy nhất là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ.

Ngoài mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ còn có các mục đích khác như: tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội...

Về đối tượng có thể tự do thành lập tổ chức Công đoàn.

Tất cả mọi NLĐ không phân biệt đối xử đều có quyền tham gia thành lập, gia nhập và tổ chức hoạt động công đoàn để bảo vệ lợi ích cho mình.

NLĐ là người Việt Nam làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn.

Cũng từ thực tế pháp lý của Việt Nam, việc thực thi quyền công đoàn có thể bị trì hoãn hoặc bị ràng buộc bởi những lý do nảy sinh từ luật định. Xét trên thực tế pháp lý, “quyền công đoàn” còn liên quan tới “quyền lập hội” còn nhiều bất cập trong hệ thống pháp luật nước ta. Quyền này chưa được thể chế hóa rõ và cũng chưa có những tiền lệ. Điều này có liên quan tới vấn đề cơ sở pháp lý cho quyền lập hội.

Có mấy vấn đề đã được các nhà nghiên cứu chỉ ra như sau:

Hệ thống văn bản “quy phạm pháp luật về quyền lập hội khá phức tạp và có nhiều vấn đề chưa được quy định rõ ràng”. Ở Việt Nam, tự do lập hội là quyền cơ bản của công dân được ghi nhận tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013.

Tuy nhiên, cho đến nay, quyền tự do lập hội của công dân vẫn đang được thực hiện theo Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP.

Một điểm cần lưu ý là Nghị định số 45/2010/NĐ-CP có ghi nhận các nguyên tắc: “Tự nguyện, tự quản và tự đảm bảo kinh phí hoạt động” không áp dụng đối với Tổng LĐLĐ Việt Nam. Điều 1, ghi rõ về phạm vi điều chỉnh của Nghị định là: “1. Nghị định này quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước đối với hội. 2. Nghị định này không áp dụng với các tổ chức: a) MTTQ Việt Nam, Tổng LĐLĐ Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội LHPN Việt Nam;…”. Hiện nay “Luật về hội” vẫn đang trong giai đoạn dự thảo để trình Quốc hội Khóa XIV thông qua trong thời gian tới.

Những vấn đề cần quan tâm khi thực hiện các cam kết về lao động, công đoàn

Việc tham gia các FTA thế hệ mới giúp năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và mỗi doanh nghiệp Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt. Trong ảnh: Chế biến cá tra xuất khẩu tại một doanh nghiệp ở Khu công nghiệp Trà Nóc 2, TP. Cần Thơ.

Thêm vào đó, những quy định về các tổ chức tương tự như công đoàn chính thống và công đoàn độc lập nếu có, thì đầu mối quản lý các công đoàn này là ai, cơ chế đánh giá, giám sát, giải trình và tính minh bạch của các hội; những ưu đãi cùng cơ chế hợp tác đối thoại với công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội hiện có ra sao, vẫn còn chưa rõ.

Từ góc độ nghiên cứu của chúng tôi, việc quy định chủ thể lập hội chỉ là công dân (Điều 25, Hiến pháp 2013) là hạn hẹp hơn so với pháp luật quốc tế và xu hướng chung của thế giới. Đối chiếu với vị thế cụ thể của NLĐ trong các doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay, với tư cách là người làm thuê, chịu nhiều ràng buộc về kinh tế - pháp lý, thì rất khó thực thi quyền xã hội - pháp lý này.

Nhìn chung các quy định pháp luật về thành lập hội trong Nghị định 45/NĐ- CP/2010, Bộ Luật Dân sự - 2015 và các văn bản pháp luật liên quan vẫn thiên về tạo điều kiện cho cơ quan quản lý hơn là coi trọng ý chí của nhân dân trong việc lập hội. Sẽ có những tình huống là xuất hiện một số tổ chức đã tồn tại nhưng khó được chấp nhận vì thiếu cơ chế pháp lý rõ ràng.

Hệ thống pháp luật lao động vẫn còn một số qui định chưa đủ linh hoạt theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Điều đó có thể làm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước ngần ngại (khi đổi mới công nghệ, phát triển nhân lực...); làm chậm quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước (khi tinh giản biên chế, cổ phần hóa, đổi mới công nghệ...); phản tác dụng bảo vệ NLĐ (một số trường hợp trây ỳ, kém về tác phong công nghiệp, vô kỷ luật nhưng vẫn được bảo hộ về việc làm).

Trong quá trình thực thi còn khá nhiều qui định chưa rõ ràng, gây những tranh chấp không đáng có giữa các bên hoặc tạo ra sự không thống nhất trong quá trình điều chỉnh và thực hiện pháp luật. Hệ thống pháp luật lao động còn thiếu một số nội dung cần thiết để điều chỉnh QHLĐ theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường...

(Mời bạn đọc xem tiếp kỳ 2: Những vấn đề quản lý Nhà nước cần quan tâm để hỗ trợ Công đoàn trong thời gian gian tới” tại số LĐ&CĐ tháng 11).

Công đoàn hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động Công đoàn hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động

Trong đại dịch Covid-19, tổ chức Công đoàn đã có nhiều hoạt động thiết thực hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động, nỗ lực cùng ...

Một số vấn đề then chốt để xây chắc nền móng tổ chức Công đoàn Việt Nam Một số vấn đề then chốt để xây chắc nền móng tổ chức Công đoàn Việt Nam

Nhân dịp kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam 28/7 (1929 - 2021) và nhân dịp Bộ Chính trị Ban Chấp ...

Tự hào về bản sắc tốt đẹp của tổ chức Công đoàn Tự hào về bản sắc tốt đẹp của tổ chức Công đoàn

Cứ mỗi lần nhắc đến tổ chức Công đoàn, tôi luôn dành tình cảm trân trọng, tự hào.

Chia sẻ
In bài viết

Tin cùng chuyên mục

Đồng chí Hoàng Quốc Việt với công tác chăm lo đời sống người lao động

Công đoàn -

Đồng chí Hoàng Quốc Việt với công tác chăm lo đời sống người lao động

Trên cương vị Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam), đồng chí Hoàng Quốc Việt hết sức coi trọng công tác chăm lo đời sống cho công nhân, viên chức mà tiền lương, tiền thưởng là vấn đề quan tâm hàng đầu.

Đồng chí Tôn Đức Thắng: Từ người thợ máy đến thủ lĩnh công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn

Công đoàn -

Đồng chí Tôn Đức Thắng: Từ người thợ máy đến thủ lĩnh công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn

Đồng chí Tôn Đức Thắng (20/8/1888 - 30/3/1980) sống 92 năm tuổi đời, có gần 70 năm hoạt động cách mạng, 17 năm bị thực dân, đế quốc giam cầm, tù đày và đã giữ nhiều trọng trách trong Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội.

Thực trạng công tác ATVSLĐ và những vấn đề cần nghiên cứu giai đoạn 2025-2030

Nghiên cứu -

Thực trạng công tác ATVSLĐ và những vấn đề cần nghiên cứu giai đoạn 2025-2030

Tổ chức Công đoàn là một chủ thể quan trọng trong việc tham gia bảo đảm an toàn và sức khỏe cho người lao động.

Vấn đề thành lập tổ chức khác của người lao động tại doanh nghiệp

Nghiên cứu -

Vấn đề thành lập tổ chức khác của người lao động tại doanh nghiệp

Công đoàn Việt Nam từ khi thành lập đến nay luôn là một bộ phận khăng khít của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động. Việc trong thời gian tới có thể xuất hiện tổ chức khác của người lao động tại doanh nghiệp đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu, giải quyết.

TS. Bùi Sỹ Lợi đề xuất 6 nội dung cần sửa đổi trong Luật Công đoàn

Hoạt động Công đoàn -

TS. Bùi Sỹ Lợi đề xuất 6 nội dung cần sửa đổi trong Luật Công đoàn

Theo TS. Bùi Sỹ Lợi, xuất phát từ yêu cầu khắc phục một số hạn chế, bất cập của Luật Công đoàn, đáp ứng hoạt động của tổ chức Công đoàn trong thời kỳ mới, việc sửa đổi Luật Công đoàn là rất cần thiết.

Cần hơn nữa vai trò phản biện chính sách và đồng quyết định của công đoàn

Công đoàn -

Cần hơn nữa vai trò phản biện chính sách và đồng quyết định của công đoàn

Với vai trò là tổ chức đại diện cho người lao động (NLĐ), công đoàn (CĐ) thực hiện nhiệm vụ của mình thông qua ba hình thức sau: chăm lo – tiếng nói – đồng quyết định, gọi là ba nấc thang đại diện.

Talk Công đoàn: Để tai nạn lao động không còn là nỗi đau dai dẳng Talk Công đoàn

Talk Công đoàn: Để tai nạn lao động không còn là nỗi đau dai dẳng

Talk Công đoàn là cuộc trò chuyện với đồng chí Hồ Thị Kim Ngân, Phó Trưởng ban Quan hệ Lao động, Tổng LĐLĐ Việt Nam về vấn đề an toàn vệ sinh lao động.

Thời gian nghỉ thai sản người lao động có được tính nâng lương? Tôi công nhân

Thời gian nghỉ thai sản người lao động có được tính nâng lương?

Nếu doanh nghiệp và người lao động đã thống nhất tính thời gian thai sản vào thời gian làm việc xét nâng lương thì người lao động đang nghỉ thai sản sẽ được xem xét nâng lương theo đúng thỏa thuận ban đầu.

Đón xem Talk Công đoàn: Để tai nạn lao động không còn là nỗi đau dai dẳng Talk Công đoàn

Đón xem Talk Công đoàn: Để tai nạn lao động không còn là nỗi đau dai dẳng

Chương trình Talk Công đoàn, 20 giờ, tối thứ Bảy (4/5/2024) là chia sẻ của đồng chí Hồ Thị Kim Ngân - Phó Trưởng ban Quan hệ Lao động, Tổng LĐLĐ Việt Nam về chủ đề an toàn vệ sinh lao động.

6 hoạt động phối hợp giữa Tổng Liên đoàn và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Infographic

6 hoạt động phối hợp giữa Tổng Liên đoàn và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Căn cứ chương trình hoạt động năm 2024 của 02 tổ chức, Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam và Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ Việt Nam thống nhất phối hợp hoạt động thực hiện năm 2024 như sau:
Bản tin công nhân: Con đến tuổi đi học, công nhân đắn đo chuyện đón con lên thành phố ở cùn Bản tin công nhân

Bản tin công nhân: Con đến tuổi đi học, công nhân đắn đo chuyện đón con lên thành phố ở cùn

Bản tin công nhân ngày 4/5 gồm những nội dung chính: Con đến tuổi đi học, công nhân đắn đo chuyện đón con lên thành phố ở cùng; Tháo gỡ, giải quyết chế độ cho 66 công nhân Nghệ An bị bệnh bụi phổi silic; 10 nghề ở TP HCM không tuyển nhân sự trong tháng 4/2024...

Rút bảo hiểm xã hội 1 lần rồi có đóng lại được không? Video

Rút bảo hiểm xã hội 1 lần rồi có đóng lại được không?

Đọc thêm

An Giang: Khát vọng vươn lên từ phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”

Hoạt động Công đoàn -

An Giang: Khát vọng vươn lên từ phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”

Từ phong trào thi đua “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, LĐLĐ tỉnh An Giang đã phát hiện hàng loạt nhân tố tiêu biểu, xuất sắc nhất. Bằng niềm đam mê nghiên cứu khoa học, sáng tạo không ngừng, họ đã cống hiến, làm lợi hàng tỷ đồng cho cơ quan, đơn vị.

Bảo đảm hoạt động công đoàn về công tác cán bộ và góp ý sửa đổi Luật Công đoàn

Nghiên cứu -

Bảo đảm hoạt động công đoàn về công tác cán bộ và góp ý sửa đổi Luật Công đoàn

Công tác cán bộ là công việc quan trọng của Đảng và các đoàn thể. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, mà còn chú trọng đến xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn thể nói chung và rèn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ công đoàn nói riêng.

Bài 16: Thách thức và giải pháp đổi mới hoạt động nữ công công đoàn trong tình hình mới

Nghiên cứu -

Bài 16: Thách thức và giải pháp đổi mới hoạt động nữ công công đoàn trong tình hình mới

Với tỷ lệ chiếm gần 50% lực lượng lao động, lao động nữ (LĐN) ngày càng khẳng định vị thế, vai trò của mình trên mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội đất nước. Việc thu hút lực lượng LĐN gia nhập Công đoàn Việt Nam (CĐVN) được coi là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Công đoàn nói chung, của Ban Nữ công công đoàn (NCCĐ) các cấp nói riêng. Điều này đòi hỏi hoạt động NCCĐ các cấp thời gian tới cần có nhiều đổi mới để tiếp cận ngày một sát hơn với nhu cầu, nguyện vọng của LĐN.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và sứ mệnh của Công đoàn Việt Nam

Nghiên cứu -

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và sứ mệnh của Công đoàn Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm lớn lao, sâu sắc đối với giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn.

Tổ chức Công đoàn ngày càng phải hoạt động chuyên nghiệp, năng động, hiệu quả hơn

Nghiên cứu -

Tổ chức Công đoàn ngày càng phải hoạt động chuyên nghiệp, năng động, hiệu quả hơn

Nghị quyết số 02 của Bộ Chính trị đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu nhằm xây dựng, củng cố tổ chức Công đoàn theo hướng ngày càng chuyên nghiệp, năng động, hiệu quả hơn.

Bàn giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn lớn mạnh

Kỹ năng cán bộ công đoàn -

Bàn giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn lớn mạnh

Cán bộ là gốc rễ của mọi sự thành bại của tổ chức và điều này đã chứng minh qua thực tiễn. Trước những yêu cầu của thời kì mới, nhiệm vụ đặt ra trong xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn (CBCĐ) là gì? Yêu cầu đặt ra đối với vấn đề năng lực, trình độ, chất lượng đội ngũ CBCĐ trong thời gian tới như thế nào? Cần đưa ra giải pháp, kiến nghị gì để xây dựng đội ngũ CBCĐ ngày càng lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đoàn viên, người lao động và bối cảnh hội nhập quốc tế. Đây là vấn đề tổ chức Công đoàn Việt Nam cần quan tâm thực hiện trong nhiệm kỳ 2023-2028.

Vai trò đại diện cho NLĐ của Công đoàn Việt Nam ở doanh nghiệp chưa có công đoàn

Nghiên cứu -

Vai trò đại diện cho NLĐ của Công đoàn Việt Nam ở doanh nghiệp chưa có công đoàn

Việc đại diện của NLĐ tại doanh nghiệp bao gồm rất nhiều nội dung như đại diện tham gia đảm bảo việc làm, tiền lương, hợp đồng lao động, đào tạo nghề, đối thoại, thương lương, ký kết thỏa ước lao động tập thể, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất, an toàn, vệ sinh lao động, BHXH, BHYT, lãnh đạo đình công...

Bài 2: Các giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh

Nghiên cứu -

Bài 2: Các giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh

Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh bằng tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc, lòng tự hào, tự tôn dân tộc cho giai cấp công nhân; đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục giác ngộ giai cấp.

Bài 1: Quan niệm thế nào về giai cấp công nhân trong cơ cấu xã hội - giai cấp hiện nay

Nghiên cứu -

Bài 1: Quan niệm thế nào về giai cấp công nhân trong cơ cấu xã hội - giai cấp hiện nay

Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước đến năm 2030 và 2045: “Đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao” được Đại hội XIII của Đảng đề ra.

Những vấn đề đặt ra sau 10 năm thực hiện Luật Công đoàn 2012

Nghiên cứu -

Những vấn đề đặt ra sau 10 năm thực hiện Luật Công đoàn 2012

Luật Công đoàn 2012 là cơ sở pháp lý quan trọng để Công đoàn Việt Nam tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát huy vai trò và ảnh hưởng rộng lớn trong đời sống chính trị - xã hội. Sau hơn 10 năm áp dụng, Luật Công đoàn 2012 đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập từ thực tiễn, đặt ra yêu cầu đòi hỏi cần tiếp tục sửa đổi hoàn thiện nhằm đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật và hội nhập kinh tế quốc tế.