
Công ty ký hợp đồng lao động dưới hình thức thông điệp dữ liệu có rủi ro không? |
![]() |
Ảnh minh hoạ. |
Người lao động là độc giả của Tạp chí Lao động và Công đoàn gửi câu hỏi: Theo tôi được biết, điểm a khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động vì cho rằng người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động. Vậy theo luật, căn cứ như thế nào để xác định người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động?
Về nội dung này, Luật sư Nguyễn Văn Hoàng, Công ty Luật HTH Global tư vấn chi tiết như sau:
Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP hướng dẫn BLLĐ 2003 từng quy định “1. Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động là không hoàn thành định mức lao động hoặc nhiệm vụ được giao do yếu tố chủ quan và bị lập biên bản hoặc nhắc nhở bằng văn bản ít nhất hai lần trong một tháng, mà sau đó vẫn không khắc phục.
Mức độ không hoàn thành công việc được ghi trong hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động của đơn vị.”
Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật Lao động 2012 quy định: “1. Người sử dụng lao động phải quy định cụ thể tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của doanh nghiệp, làm cơ sở đánh giá người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ do người sử dụng lao động ban hành sau khi có ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở.”
Tuy nhiên, đến nay Bộ Luật Lao động năm 2003 và 2012 đã hết hiệu lực và 02 Nghị định vừa nêu cũng đã không còn hiệu lực thi hành. Thay vào đó, Bộ Luật Lao động năm 2019 đã có quy định chi tiết luôn trong điều luật. Cụ thể, Khoản 1 Điều 36 Bộ Luật Lao động năm 2019 quy định về các trường hợp người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ, trong đó điểm a quy định như sau:
“a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở;”
Như vậy, tiêu chí để xác định người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc được căn cứ theo quy định trong quy chế của người sử dụng lao động. Quy chế này trước khi được người sử dụng lao động ban hành thì phải tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.
Người sử dụng lao động chỉ áp dụng được quy định này nếu công ty có quy chế trong đó xác định tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc. Quy chế này phải được ban hành hợp lệ, có hiệu lực thực hiện. Ngoài ra, thường xuyên không hoàn thành tức là người lao động phải có tối thiểu 02 lần vi phạm trong một khoản thời gian nhất định mới đủ cơ sở để áp dụng.
![]() Trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) thì người sử dụng lao động có nghĩa vụ gì? |
Tin mới hơn

Đột quỵ trong lúc làm việc, người lao động được bồi thường tiền tỷ

Người lao động bị “đẩy đi” bằng một quyết định không hợp pháp

Đề xuất phạt tù đối với hành vi sa thải lao động trái luật
Tin tức khác

Dừng cấp thẻ bảo hiểm y tế giấy từ 1/6: làm gì để không gián đoạn khám chữa bệnh?

Vụ sạt lở thủy điện Tả Páo Hồ 1A: Chế tài pháp lý đối với doanh nghiệp dùng lao động dưới 18 tuổi?

Thắng kiện, người lao động còn được bồi thường tăng thêm 550 triệu đồng

Thắng kiện 750 triệu đồng: Một vụ việc, nhiều tiếng nói

Vụ người lao động yêu cầu bồi thường gần 1 tỷ đồng: Tạm ngừng phiên tòa phúc thẩm
