“Trong năm 2024, chúng tôi ưu tiên phát triển mô hình kinh doanh mang lại lợi nhuận bền vững xuyên suốt Tập đoàn. Theo đó, WinCommerce (“WCM”) và Masan MEATLife (“MML”) đã chính thức mang về lợi nhuận. Chúng tôi đã và đang tập trung tối ưu thị phần trong chi tiêu của người tiêu dùng bằng sự liên kết hợp lực những thương hiệu mạnh, nền tảng công nghệ và bán lẻ. Việc mang đến chương trình Hội viên WIN cho thị trường bán lẻ truyền thống (cửa hàng tạp hóa) và hiện đại (các siêu thị, cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini) sẽ giúp mỗi mảng kinh doanh của chúng tôi đạt tăng trưởng hai chữ số trong năm 2025 và hơn thế nữa.” - Tiến sĩ Nguyễn Đăng Quang, Chủ tịch Tập đoàn Masan chia sẻ.
Doanh thu thuần:Trong quý 4 năm 2024 và năm 2024, doanh thu thuần của Masan Group lần lượt đạt 22.666 tỷ đồng và 83.178 tỷ đồng. Đóng góp vào con số tích cực của doanh thu là đà tăng trưởng bền vững của mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ cốt lõi và nghĩa vụ hợp đồng đã hoàn thành của MHT đối với đối tác, giúp bù đắp lại cho định hướng chiến lược của MML trong việc tái cấu trúc mảng gà trang trại.
EBITDA:đạt lần lượt 4.580 tỷ đồng và 15.921 tỷ đồng trong quý 4 năm 2024 và năm 2024, tăng 44,6% và 19,3% so với cùng kỳ năm trước. Mức tăng đáng kể này được thúc đẩy bởi đà tăng trưởng lợi nhuận tích cực của tất cả các mảng kinh doanh dùng bán lẻ.
Lợi nhuận sau thuế (“NPAT”): Lợi nhuận sau thuế sau phân bổ cổ đông thiểu số (NPAT Post-MI) đạt 691 và 1.999 tỷ đồng trong quý 4 năm 2024 và năm 2024, tăng lần lượt 1.282,0% và 377,5% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả này được thúc đẩy bởi đà tăng trưởng lợi nhuận mạnh mẽ xuyên suốt mảng kinh doanh tiêu dùng bán lẻ, 365 tỷ đồng cải thiện nhờ chi phí lãi vay ròng giảm và khoản lợi nhuận một lần 89 tỷ đồng từ việc bán HCS.
Kết quả tích cực này giúp bù đắp cho các chi phí một lần của quá trình chuyển đổi của MHT và lợi nhuận từ việc chiết khấu bán buôn cho thức ăn chăn nuôi của mảng kinh doanh trang trại thuộc MML.
Ngoài ra, MSN cũng ghi nhận 100 tỷ đồng chi phí từ hoạt động từ thiện và giảm lợi nhuận 288 tỷ đồng do TCB ghi nhận chi phí một lần khi chấm dứt hợp đồng với Manulife. Đà tăng trưởng của các hoạt động kinh doanh cốt lõi kể từ đầu năm đã mang lại cho ban lãnh đạo sự tự tin vào sự chuyển đổi thành nền tảng tiêu dùng bán lẻ của Masan.
Lợi nhuận quý 4 năm 2024 của Masan ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ, gấp gần 14 lần so với cùng kỳ năm trước, đạt 691 tỷ đồng. Lợi nhuận cả năm 2024 đạt 200% kế hoạch kịch bản cơ sở.
WinCommerce và Masan MEATLife đã mang lại lợi nhuận trong năm 2024, đóng góp 993 tỷ đồng vào mức tăng của lợi nhuận sau phân bổ cổ đông thiểu số (post-MI). Các doanh nghiệp này sẽ là động lực chính giúp thúc đẩy lợi nhuận của Công ty trong thời gian tới.
Masan Consumer Corporation (UpCOM: MCH) ghi nhận doanh thu quý 4 năm 2024 và năm 2024 lần lượt là 8.942 tỷ đồng và 30.897 tỷ đồng, tăng trưởng 5,3% và 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Kết quả tích cực này được thúc đẩy bởi chiến lược cao cấp hóa được triển khai trong ngành hàng Thực phẩm tiện lợi (Tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước) và Gia vị (Tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước), và thực thi các phát kiến đổi mới trong ngành hàng Đồ uống (Tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước). Doanh thu từ các thị trường quốc tế đạt mức tăng mạnh mẽ 22,4% so với cùng kỳ năm trước.
MCH đã cải thiện biên lợi nhuận gộp cả năm lên mức 46,6%, tăng 70 điểm cơ bản so với năm 2023, nhờ vào chiến lược cao cấp hóa tại ngành hàng Thực phẩm tiện lợi, kết hợp tốt hơn các sản phẩm có biên lợi nhuận cao hơn và chiến lược giá ở các ngành hàng quan trọng.
Chi tiêu cho hoạt động xúc tiến thương mại đã được cắt giảm để phân bổ vào các phát kiến có tỷ suất hoàn vốn (ROI) cao hơn như phát triển kênh bán hàng mới và xây dựng thương hiệu. Điều này giúp MCH tiết giảm được 260 điểm cơ bản chi phí bán hàng theo tỷ lệ phần trăm doanh thu trong quý 4 năm 2024. Mức hàng tồn kho tại các nhà phân phối vẫn ở mức tốt trong 15 ngày tính đến quý 4 năm 2024 khi Tết Nguyên đán đến sớm hơn mọi năm.
Tăng trưởng doanh thu quý 4 năm 2024 đạt 5,3% so với cùng kỳ năm trước do MCH chuyển việc ra mắt các sản phẩm mới sang năm 2025. MCH kỳ vọng xu hướng tiêu dùng sẽ có sự phục hồi mạnh mẽ trong năm 2025.
Trong năm 2024, biên lợi nhuận sau thuế sau phân bổ cổ đông thiểu số (NPAT Post-MI margin) đạt mức 25,3%; Lợi nhuận sau thuế sau phân bổ cổ đông thiểu số (NPAT Post-MI) tăng 10,1%. Trong quý 4 năm 2024, NPAT Post-MI chỉ tăng nhẹ 2,4% so với cùng kỳ năm trước do khoản chi trả cổ tức khoảng 23 nghìn tỷ đồng. Động thái này làm giảm thu nhập tài chính.
Doanh thu của MML tăng 24,0% và 9,5% so với cùng kỳ năm trước, đạt lần lượt 2.204 tỷ đồng và 7.650 tỷ đồng trong quý 4 năm 2024 và năm 2024. Doanh thu từ mảng thịt tươi và thịt chế biến tăng 15,4%, doanh thu từ mảng trang trại giảm 7,3% so với cùng kỳ năm trước trong năm 2024. Điều này là do MML tái cấu trúc mảng trang trại để chuyển trọng tâm sang hoạt động kinh doanh trực tiếp đến người tiêu dùng. Trong năm 2024, mảng thịt lợn tươi ghi nhận doanh số bán hàng hằng ngày trên mỗi cửa hàng WCM tăng 26% so với cùng kỳ năm trước.
Mảng kinh doanh thịt chế biến của MML vượt mốc 200 tỷ đồng doanh thu hàng tháng, chiếm 34,6% doanh thu của MML trong năm 2024 so với mức 32,9% trong năm 2023. Các sản phẩm mới đóng góp 538 tỷ đồng doanh thu trong năm 2024. Đây là động lực chính thúc đẩy mức tăng trưởng 12,9% so với cùng kỳ năm trước của mảng thịt chế biến. Tỷ lệ sử dụng thịt lợn cho mảng thịt chế biến tăng từ 5,4% trong quý 4 năm 2023 lên 6,7% trong quý 4 năm 2024, phù hợp với chiến lược của MML nhằm tăng biên lợi nhuận gộp chung và tăng cường tích hợp theo chiều dọc.
Doanh thu thuần của Phúc Long Heritage (“PLH”) tăng 11,5% và 5,6% so với cùng kỳ năm trước lên lần lượt là 417 tỷ đồng và 1.621 tỷ đồng trong quý 4 năm 2024 và năm 2024. Động lực tăng trưởng chính đến từ việc mở 33 cửa hàng mới và cải tạo cửa hàng thành công.
Trong năm 2024, một nhóm 11 cửa hàng được cải tạo đã mang lại mức tăng trưởng 13,4% của doanh số trung bình hằng ngày đối với phân khúc dùng-tại-chỗ (dine-in), so với mức tăng trưởng đi ngang của các cửa hàng tương tự nhưng không được cải tạo. Đây là nỗ lực của PLH cho cam kết tìm ra lược chiến thành công.
NPAT Pre-MI cải thiện hơn 4x trong năm 2024, với mức tăng 28 tỷ đồng trong quý 4 năm 2024 và đạt 97 tỷ đồng cho cả năm. Biên lợi nhuận ròng đạt 7,6% trong năm 2024.
5 thương hiệu mạnh của Masan |
Doanh thu của Masan High-Tech Materials (“MHT”) tăng 21,3% và 1,7% so với cùng kỳ năm trước, đạt lần lượt 3.868 tỷ đồng và 14.336 tỷ đồng trong quý 4 năm 2024 và năm 2024.
Bất chấp những thách thức do gián đoạn dịch vụ nổ mìn tại công ty Nui Phao Mining và tác động của cơn bão Yagi, làm chậm trễ việc tiếp cận, khai thác quặng tại các khu vực mở, MHT đã đạt được kết quả tích cực trong quý 4 năm 2024. Sản lượng của tất cả các sản phẩm đều tăng so với quý trước đó.
Doanh thu bán đồng năm 2024 đạt 1.442 tỷ đồng, cho thấy sự cải thiện đáng kể. Doanh số bán hàng cho khách hàng nội địa tăng đóng vai trò quan trọng trong việc tăng dòng tiền tự do của công ty và giảm nợ phải trả.
Là một phần của chiến lược "Thay đổi để thích ứng", MHT đã hoàn tất hợp đồng mới với một nhà thầu khai thác, khoan và nổ mìn. Hợp đồng mới có mức giảm đến 10% chi phí khai thác so với các thỏa thuận trước đó. MHT cũng đang đánh giá các cơ hội tối ưu hóa chi phí cho các hợp đồng quan trọng khác.
Ngày 18 tháng 12 năm 2024, MHT thông báo hoàn tất thành công việc bán 100% H.C. Starck Holding GmbH (“HCS”) cho Mitsubishi Materials Corporation với giá mua là 134,5 triệu USD. Giao dịch bao gồm thỏa thuận bao tiêu APT và oxit vonfram giữa MHT và HCS, đảm bảo lợi ích lâu dài cho cả hai bên và cung cấp cho MHT nền tảng vững chắc để tối đa hóa khối lượng đơn hàng.
Techcombank (“TCB”), công ty liên kết của Masan, đã đóng góp 732 tỷ đồng vào EBITDA trong quý 4 năm 2024, tăng trưởng -21,0% so với cùng kỳ năm trước do chi phí một lần khi chấm dứt hợp đồng với Manulife, làm giảm NPAT của MSN 288 tỷ đồng. Để biết kết quả chi tiết, vui lòng tham khảo trang web của ngân hàng.
Bảng cân đối kế toán:
Tiền và các khoản tương đương tiền tính đến cuối năm 2024 đạt 19.226 tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước so với mức 16.919 tỷ đồng của cuối năm 2023.
Nợ ròng/EBITDA 12 tháng gần nhất đạt 2,9x, so với mức 3,9x của quý 4 năm 2023, đạt mục tiêu Nợ ròng/EBITDA dưới 3,5x do dòng tiền từ hoạt động kinh doanh được cải thiện và nguồn tiền từ các hoạt động tài trợ vốn của công ty.
Dòng tiền tự do (“FCF”) 12 tháng gần nhất tăng lên 9.580 tỷ đồng tính đến năm tài chính 2024, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm trước.