Vận dụng tư tưởng của Mác và Ăng Ghen vào xây dựng giai cấp công nhân (Bài 2)

Điều này thật vô cùng quan trọng khi Đảng Cộng sản đã trở thành đảng cầm quyền, nhà nước do đảng lãnh đạo làm chức năng quản trị xã hội thì nhất thiết Đảng phải làm cho những con người cá nhân hiện thực, có tư cách pháp nhân, hấp thụ được tinh thần người công dân vào trong bản thân; phải làm cho con người nhận thức được và tổ chức được “những lực lượng của bản thân” thành những lực lượng xã hội và vì vậy sẽ không còn tách lực lượng xã hội dưới dạng lực lượng chính trị ra khỏi bản thân mình, nói nôm na là con người, người công dân với nhà nước là một thể thống nhất về lợi ích, về quyền và trách nhiệm.

Theo C.Mác, chỉ khi ấy sứ mệnh giải phóng con người mà Đảng Cộng sản tuyên bố mới được hoàn thiện. Quan niệm này được C.Mác cùng bạn ông là Ph.Ăng-ghen phát triển thành luận điểm “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.

Nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng trên thế giới đã nhận xét rằng đó là luận điểm bất hủ, là câu hay nhất, có giá trị vĩnh hằng của bản “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”.

Nói đến tự do của nhân dân là phải nói đến quyền của người dân và quyền của nhà nước; vấn đề phải giải quyết “là ở chỗ, cái mà đối với phía này là quyền, có phải trở thành vô quyền đối với phía kia không” (2).

Sự cấu thành nhà nước, nhất là nhà nước do giai cấp vô sản lãnh đạo là xác định địa vị pháp lý của cả người dân lẫn các cơ quan và quan chức nhà nước; và sự phân giải xã hội thành cá nhân độc lập - quan hệ qua lại của họ với nhau và với nhà nước phải được biểu thị trong pháp quyền.

Pháp quyền hay đặc quyền là mấu chốt của vấn đề để phân biệt quan hệ con người trong mọi chế độ xã hội: Pháp quyền là quan hệ trong xã hội dân chủ, cũng như đặc quyền là quan hệ trong xã hội đẳng cấp, chuyên chế.

Với C.Mác, cuộc cách mạng xã hội chỉ có thể là cuộc cách mạng xã hội sâu sắc và triệt để nhất nếu sau khi lật đổ chính quyền chuyên chế, Đảng Cộng sản cầm quyền biết đưa những công việc của nhà nước lên tầm cao những công việc của nhân dân.

Nhà nước chỉ thực sự là của nhân dân với điều kiện “nhất thiết phải đập tan tất cả những đẳng cấp, những đặc quyền…” bởi cùng với những cái này là những biểu hiện muôn hình muôn vẻ của sự tách biệt giữa nhân dân với cộng đồng chính trị của nó.

Nếu tồn tại đẳng cấp và đặc quyền thì chính nó lại là sự thủ tiêu tính chất chính trị của xã hội công dân, là đối lập giữa công dân với nhà nước.

Xem vậy đủ thấy một trong những nguyên nhân cơ bản của việc tan rã của một số nước XHCN ở cuối thế kỷ XX là do sự tồn tại quá lâu và nặng nề của chế độ bao cấp, đẳng cấp và đặc quyền, đặc lợi.

Vận dụng tư tưởng của Mác và Ăng Ghen vào xây dựng giai cấp công nhân (Bài 2)

Ph. Ăng-ghen và C. Mác. Tranh: Tư liệu

Sự nhận ra tính cấp bách của công tác chỉnh đốn Đảng liên quan đến sự tồn vong của chế độ mà Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư các khóa (khóa XI, XII, XIII) đã xác nhận là có căn cứ lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tuy nhiên, vấn đề là phải theo phương pháp Hồ Chí Minh: Nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều và làm có hiệu quả và bớt đi những lời “dối trá cộng sản” như V.I.Lê-nin đã từng lên án.

Xóa bỏ đặc quyền đòi hỏi phải có pháp quyền. Nhưng pháp quyền lại đòi hỏi bắt buộc phải có luật pháp đủ và đúng. Vì vậy ở đây C.Mác đã giả định rằng không có cái đặc thù là “… sự bất tài và tầm mắt hẹp hòi có thể được đề lên thành luật pháp, bởi vì cái đặc thù chỉ có thể được xem xét về mặt tinh thần và được xem xét một cách tự do trong mối liên hệ của nó với chỉnh thể, chứ không phải tách rời với chỉnh thể”(3)

(Ở đây chúng tôi hiểu là nó liên quan đến luật bầu cử, chế độ tự do ứng cử và bầu cử, đến quyền công dân trong việc tham gia tranh cử, đến trình độ dân trí, văn hóa dân chủ và việc thực hành chính sách nhân tài của Đảng…).

Tác hại và hậu quả vô cùng xấu của đặc quyền đối với hoạt động hành pháp. C.Mác chỉ rõ một khi đặc quyền chiếm địa vị thống trị, thì đương nhiên Chính phủ có đầy đủ quyền khẳng định rằng đối với tất cả mọi công việc của mình, Chính phủ là tác giả duy nhất đủ tư cách định đoạt và hoàn toàn không sai, và, nhân dân không đủ trình độ và đủ tư cách nói lên ý kiến của mình về công việc nhà nước.

Hồ Chí Minh đã gặp gỡ tư tưởng này của C.Mác nên Người đã phê phán rằng kẻ đặc quyền, đặc lợi không coi việc nước là việc chung mà hắn ta chỉ coi đó là việc riêng của trong nhà, của dòng họ hay của cánh hẩu (nhóm) mà thôi.

Đặc quyền sẽ là nguy cơ bất ổn trong tình hình nước ta hiện nay thể hiện ra ở khu vực nông nghiệp, nông thôn là lợi ích của người nông dân chưa được giải quyết thỏa đáng, thậm chí không được đảm bảo đầy đủ về mặt lợi ích bằng một văn bản luật về quyền sở hữu ruộng đất. Còn ở khu vực công nghiệp là cơ chế quản trị, vai trò và hiệu quả của các tập đoàn kinh tế nhà nước; là đời sống của người công nhân trong tất cả các thành phần kinh tế.

Theo Mác và Lênin thì Đảng Cộng sản khi đã trở thành đảng cầm quyền, xây dựng chế độ XHCN thì phải chú ý hai vấn đề rất cơ bản là: 1) giai cấp công nhân phải được giải phóng trên thực tế, nghĩa là phải có cơ sở vật chất, cơ chế và tư cách pháp nhân để có thực địa vị làm chủ; 2) “giả định rằng toàn xã hội (đa số là nông dân) cũng ở trong địa vị của giai cấp đó, nghĩa là phải có tiền và học thức chẳng hạn, hoặc có thể kiếm được tiền và học thức theo ý muốn” (4).

“Không một giai cấp nào của xã hội công dân có thể đóng được vai trò đó (vai trò lãnh đạo xã hội) mà lại không khơi lên trong khoảnh khắc cái nhiệt tình trong bản thân nó và trong quần chúng. Đó là lúc mà giai cấp ấy kết nghĩa anh em với toàn thể xã hội và hòa với toàn thể xã hội thành một khối, lúc nó được coi và được thừa nhận là đại biểu chung của xã hội; đó là lúc mà những yêu cầu và quyền lợi của chính giai cấp ấy trên thực tế là quyền lợi và yêu cầu của bản thân xã hội, lúc mà giai cấp ấy thực sự là khối óc của xã hội và trái tim của xã hội. Chỉ nhân danh quyền lợi chung của xã hội thì một giai cấp cá biệt mới có thể đòi hỏi sự thống trị phổ biến được” (5).

Vận dụng tư tưởng của Mác và Ăng Ghen vào xây dựng giai cấp công nhân (Bài 2) Vận dụng tư tưởng của Mác và Ăng Ghen vào xây dựng giai cấp công nhân (Bài 2)

V. I. Lênin tuyên bố thành lập Chính quyền Xô Viết tại Đại hội Xô Viết toàn Nga (ngày 7-11-1917) (trái). V.I. Lê-nin trình bày Luận cương Tháng Tư, một văn kiện mang tính cương lĩnh đề ra đường lối giành chiến thắng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với khẩu hiệu “Tất cả chính quyền về tay các Xô-viết!” (phải). Ảnh tư liệu/TTXVN

Phải kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều. Muốn vững bền trong vai trò lãnh đạo xã hội thì đảng cộng sản phải kiên quyết đoạn tuyệt chủ nghĩa giáo điều: “…điểm ưu việt của khuynh hướng mới chính là ở chỗ chúng ta không cố đoán trước về tương lai một cách giáo điều, mà chỉ mong tìm ra cái thế giới mới qua sự phê phán thế giới cũ.

Cho đến nay các triết gia đã có trên bàn giấy của mình lời giải cho tất cả những điều bí ẩn, và cái thế giới đần độn không hiểu biết chỉ còn có việc là há miệng mà đớp lấy những con gà gô rán của khoa học tuyệt đối mà thôi. Giờ đây triết học đã trở thành triết học thế tục… bản thân ý thức triết học đã bị hút… vào cơn lốc của cuộc đấu tranh.

Song nếu cấu tạo tương lai và tuyên bố dứt khoát những quyết định in sẵn cho tất cả mọi thời kỳ sắp đến không phải là việc của chúng ta, thì chúng ta càng biết rõ là mình cần phải làm gì trong hiện tại - tôi nói đến sự phê phán thẳng tay toàn bộ cái hiện tồn, thẳng tay theo hai nghĩa: sự phê phán này không sợ những kết luận của mình và không lùi bước trước sự đụng độ với những cơ quan cầm quyền (ý nói chính phủ chuyên chế đặc quyền Phổ). Bởi vậy tôi không chủ trương là chúng ta giương lên một ngọn cờ giáo điều nào đó.

Ngược lại, chúng ta phải ra sức giúp những kẻ giáo điều tự làm sáng tỏ cho mình về ý nghĩa của những luận điểm riêng của họ. Ví dụ, đặc biệt chủ nghĩa cộng sản đang là một sự trừu tượng giáo điều, hơn nữa đây tôi không nói đến một chủ nghĩa cộng sản tuởng tượng và có thể nào đấy…”(6)

Chủ nghĩa giáo điều trong chính trị dẫn tới sự bè phái, cự tuyệt sáng tạo, dẫn đến chủ quan, duy ý chí, tách rời thực tế. “Đặc điểm của chủ nghĩa giáo điều là hay lên mặt anh hùng bằng những lời lẽ “tả” và bằng những khẩu hiệu “cách mạng cực đoan”, mà thực tế thì những lời lẽ và khẩu hiệu ấy thể hiện chính sách không cách mạng chút nào” (7).

Bệnh giáo điều không chỉ thể hiện ra trên bình diện chính trị, tư tưởng lý luận mà còn cả ở các lĩnh vực hành động trong kinh tế, kỹ thuật…; theo cách nói của C.Mác, bệnh giáo điều chỉ là sự bắt chước ngớ ngẩn, nó làm cho nước Đức khi ấy giống như những anh lính mới vụng về, đi lại những bước đi sai lầm của kẻ đi trước mình.

Vì thế, “Cuộc đấu tranh chống hiện thực chính trị Đức là cuộc đấu tranh chống quá khứ của những dân tộc hiện đại” (8).

Năm 1843, khi đi du lịch ở Hà Lan, C.Mác đã viết cho bạn mình ở trong nước rằng báo chí ở Hà Lan và một số nước tiền tiến, họ đã nhìn rõ nước Đức đã lún sâu xuống bùn và ngày càng lún sâu hơn nữa, ông tin rằng hiện thời cả đến những người Đức ít cảm thấy tự hào dân tộc nhất cũng không thể không lấy đó làm điều quốc sỉ.

C.Mác đã vạch trần cái chủ nghĩa yêu nước trống rỗng của những nhà lãnh đạo chính phủ Đức khi ấy “thậm chí đến xấu hổ người ta cũng còn chưa cảm thấy; ngược lại, những con người đáng thương hại này vẫn cứ là những người yêu nước” (9).

C.Mác mô tả nước Đức khi ấy như một con tàu đầy những thằng ngốc, hẳn có một thời gian phó mặc cho gió, nhưng chắc chắn nó sẽ trôi đến một kết cục thảm hại không tránh khỏi bởi vì những thằng ngốc vẫn không ngờ tới điều đó.

C.Mác đã thể hiện niềm lạc quan tin tưởng vào sự thức tỉnh của nhân dân: “Không có dân tộc nào lại rơi vào tuyệt vọng, và dù cho chỉ vì ngu xuẩn mà trong một thời gian dài nó đặt hy vọng vào một cái gì đó, nhưng rồi đến một lúc, sau nhiều năm tháng, nó sẽ đột nhiên trở nên tinh khôn và sẽ thực hiện ước vọng tốt đẹp của mình” (10).

Vận dụng tư tưởng của Mác và Ăng Ghen vào xây dựng giai cấp công nhân (Bài 2)

Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1.5.1955. Ảnh: Tư liệu TTXVN.

Để nhân dân có sự “đột nhiên tinh khôn” ấy là trách nhiệm của những người cộng sản chân chính - những người biết đi tiên phong trong đổi mới và phát triển. Đó chính là những chỉ dẫn sáng suốt có giá trị trường tồn cho những người cộng sản ở những nước chậm phát triển khi đã nắm chính quyền.

- Phải biết vượt qua chính mình. Muốn có sự nhận thức đúng đắn sâu sắc về vai trò và sứ mệnh của Đảng - một đảng tiên phong chính trị thì đòi hỏi Đảng phải biết vượt qua những chướng ngại của bản thân, hay nói như Hồ Chí Minh là phải biết chiến thắng kẻ thù của chính mình, phải biết thú nhận về những sai lầm, khuyết điểm và cả sự ngu dốt của bản thân.

C.Mác nói: “Sự ngu dốt là sức mạnh ma quỷ và chúng ta lo rằng, nó sẽ còn là nguyên nhân của nhiều bi kịch khác nữa” (11). Nhưng sự thú nhận ấy chỉ có thể có được bằng lòng dũng cảm và chân thành một khi những người cộng sản biết làm sáng tỏ “cơ sở lý luận của những tư tưởng cộng sản chủ nghĩa” vì khi “tư tưởng chiếm lĩnh ý nghĩ của chúng ta, bắt lòng tin tưởng của chúng ta phải phục tùng và được lý trí cột chặt lương tâm của chúng ta vào chúng - đó là những sợi dây ràng buộc mà người ta không thể bứt ra được nếu không xé nát trái tim của mình” (12).

Đó mới là cái đảm bảo cho việc phê bình có hiệu quả. Đó cũng là lý do vì sao chúng ta phải chỉnh đốn Đảng về tư tưởng chính trị, lấy đó làm cơ sở vững chắc cho giải pháp tự phê bình và phê bình - một giải pháp cơ bản nhất của công tác chỉnh đốn Đảng hiện nay mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã xác định.

Khi thực hành tự phê bình và phê bình thì Đảng phải dũng cảm, phải là sự “phê phán giáp lá cà” mà khi đã đánh giáp lá cà có nghĩa là phải thẳng thắn, đúng người, đúng việc, không e dè, nể nang, né tránh, không nhẹ trên, nặng dưới “… điều quan trọng không phải là địch thủ có cao thượng hay không, có cân xứng về dòng dõi hay không, có đáng chú ý hay không” (13).

Phải chăng lâu nay việc phê bình, tự phê bình kém hiệu quả, chỉ mang tính hình thức là do ta chưa chú ý đầy đủ những tư tưởng trên của C.Mác?

(Mời độc giả xem tiếp bài cuối: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG 4.0)

CHÚ THÍCH:

(1, 2, 3, 4, 5, 6, 8, 9, 10, 11, 12, 13) C.Mác và Ph.Ăng-ghen, toàn tập, tập 1, Nxb ST, H.,1978, tr.532, 75, 107, 557, 558, 497-498, 548, 488, 488, 154, 161, 547.

(7) Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, M.,1986, tr.215.

Bài viết: PGS.TS Trần Đình Huỳnh, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng: Lấy quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm nòng cốt Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng: Lấy quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm nòng cốt

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng phải coi trọng công tác xây dựng Đảng về tư tưởng. Người luôn nhắc ...

Quyết tâm xây dựng nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng Quyết tâm xây dựng nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng

Nhân dịp kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2024), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài ...

Vận dụng chỉ dẫn của Tổng Bí thư Trần Phú trong công tác xây dựng Đảng Vận dụng chỉ dẫn của Tổng Bí thư Trần Phú trong công tác xây dựng Đảng

Trên cương vị Tổng Bí thư đầu tiên, đồng chí Trần Phú luôn nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng và những vấn đề ...