Vai trò của truyền thông chính sách trong phát triển vùng dân tộc thiểu số: Nghiên cứu tại Hà Giang
Kinh tế - Xã hội

Vai trò của truyền thông chính sách trong phát triển vùng dân tộc thiểu số: Nghiên cứu tại Hà Giang

Trương Hà Tùng Nhi - Học viện Hành chính và Quản trị công
Truyền thông chính sách chính là chìa khóa để chính sách dân tộc đi vào cuộc sống, từ đó góp phần phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Truyền thông chính sách dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang
Từ khoá: Truyền thông, truyền thông chính sách dân tộc; chính sách dân tộc; vai trò truyền thông chính sách; phát triển vùng dân tộc thiểu số.

Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy quản trị công hiệu quả, truyền thông chính sách ngày càng được xem là công cụ thiết yếu, góp phần gắn kết giữa hoạch định và thực thi chính sách, đồng thời tăng cường sự tham gia, giám sát và đồng thuận xã hội. Không đơn thuần là hoạt động cung cấp thông tin, truyền thông chính sách đóng vai trò cầu nối giữa Nhà nước và người dân, định hướng nhận thức, điều chỉnh hành vi và tạo nền tảng cho thực thi chính sách hiệu quả.

Bài viết tập trung phân tích vai trò của truyền thông chính sách dân tộc tại tỉnh Hà Giang – một địa bàn đặc biệt khó khăn, nhưng giàu bản sắc và tiềm năng. Trên cơ sở nhận diện bối cảnh, thách thức và thực tiễn triển khai, bài viết khẳng định: truyền thông chính sách chính là chìa khóa để chính sách dân tộc đi vào cuộc sống, từ đó góp phần phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Bức tranh tổng quan về Hà Giang – vùng đồng bào dân tộc thiểu số

a. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

Hà Giang là tỉnh cực Bắc của Việt Nam, có đường biên giới dài hơn 270 km giáp với Trung Quốc, giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng – an ninh, phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa. Với diện tích tự nhiên hơn 7.800 km², địa hình tỉnh chủ yếu là núi đá vôi, bị chia cắt mạnh, độ dốc lớn, giao thông đi lại khó khăn, nhất là vào mùa mưa hoặc mùa đông giá rét.

Khí hậu Hà Giang mang tính chất cận nhiệt đới gió mùa núi cao, có sự phân hóa rõ theo độ cao và vùng miền. Nhiều nơi có sương muối, băng tuyết vào mùa đông, ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sinh hoạt và đặc biệt là tiếp cận thông tin, tổ chức các hoạt động tuyên truyền. Đặc điểm tự nhiên này tạo ra không ít rào cản cho công tác thực thi và truyền thông chính sách tại cơ sở, nhất là tại các thôn bản vùng sâu, vùng xa.

b. Đặc điểm dân cư, văn hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Toàn tỉnh Hà Giang hiện có gần 887.000 người với 19 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 87% dân số. Các dân tộc chủ yếu là Mông, Tày, Dao, Nùng, Lô Lô, Cờ Lao, Pu Péo..., cư trú phân tán ở các vùng núi cao, thôn bản xa trung tâm, điều kiện sống còn nhiều khó khăn. Trình độ dân trí còn thấp; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo ở mức cao, tập trung chủ yếu ở các huyện vùng cao như Đồng Văn, Mèo Vạc, Hoàng Su Phì…

Điểm nổi bật của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại Hà Giang là tính đa dạng về văn hóa và bản sắc. Mỗi dân tộc có hệ giá trị riêng biệt thể hiện qua ngôn ngữ, trang phục, tập tục, tín ngưỡng, nghi lễ truyền thống. Tuy nhiên, chính sự đa dạng này lại trở thành một rào cản lớn đối với truyền thông chính sách, đặc biệt là rào cản ngôn ngữ. Theo thống kê của Ban Dân tộc tỉnh, hơn 60% người dân tại các xã vùng cao vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hằng ngày; một bộ phận chưa thạo tiếng phổ thông, dẫn đến việc tiếp nhận các văn bản, tài liệu chính sách gặp nhiều khó khăn.

Vai trò của truyền thông chính sách trong phát triển vùng dân tộc thiểu số: Nghiên cứu tại Hà Giang
Tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, truyền thông chính sách không chỉ dừng lại ở việc phổ biến thông tin mà còn có chức năng “ dẫn dắt nhận thức - tạo dựng niềm tin”.

Bên cạnh đó, một số hủ tục lạc hậu vẫn tồn tại như tảo hôn, hôn nhân cận huyết, trọng nam khinh nữ, mê tín dị đoan... Các yếu tố này không chỉ cản trở quá trình truyền thông, mà còn ảnh hưởng đến khả năng tiếp nhận, hiểu đúng và thực hiện chính sách của người dân. Mặt khác, đồng bào dân tộc thường tiếp cận thông tin qua hình thức truyền miệng, từ người uy tín trong cộng đồng hơn là qua phương tiện truyền thông hiện đại. Do vậy, nếu truyền thông chính sách không được thiết kế phù hợp với đặc thù văn hóa và ngôn ngữ bản địa, thì rất dễ bị hiểu sai, hiểu thiếu hoặc không tiếp cận được đối tượng thụ hưởng.

c. Ý nghĩa chiến lược của vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Hà Giang

Với vị trí địa lý đặc biệt, Hà Giang không chỉ là phên dậu của Tổ quốc mà còn là khu vực trọng điểm trong các chương trình phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tỉnh là địa bàn thực hiện nhiều chính sách lớn của Đảng, Nhà nước như: Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN (giai đoạn 2021–2030), Nghị quyết 88/2019/QH14, Quyết định 1719/QĐ-TTg...

Thực tiễn triển khai các chính sách tại Hà Giang cho thấy: hiệu quả thực thi phụ thuộc rất lớn vào việc người dân có hiểu, tin và đồng thuận với chính sách hay không. Và để làm được điều đó, truyền thông chính sách phải đi trước một bước, đóng vai trò dẫn dắt nhận thức, giải thích chính sách một cách phù hợp với văn hóa bản địa, ngôn ngữ, tập quán và điều kiện thực tế của người dân.

Truyền thông chính sách dân tộc và những thách thức tại cơ sở

a. Hạn chế trong tiếp cận thông tin và rào cản ngôn ngữ

Một trong những thách thức nổi bật trong truyền thông chính sách dân tộc tại tỉnh Hà Giang là khả năng tiếp cận thông tin còn hạn chế của người dân ở vùng sâu, vùng xa. Điều kiện địa hình hiểm trở, giao thông khó khăn, hạ tầng thông tin truyền thông còn yếu đã làm giảm đáng kể hiệu quả tiếp nhận chính sách. Nhiều bản làng chưa có sóng điện thoại ổn định, chưa được phủ sóng phát thanh – truyền hình, khiến việc truyền tải thông tin từ chính quyền cấp trên đến người dân không liền mạch, thậm chí bị gián đoạn hoàn toàn trong mùa mưa lũ.

Đặc biệt, rào cản ngôn ngữ vẫn là vấn đề cốt lõi. Do phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số chưa sử dụng thành thạo tiếng phổ thông, việc tiếp cận chính sách thông qua văn bản hành chính, thông báo, họp thôn... gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, tài liệu truyền thông chính sách lại ít được biên dịch sang tiếng dân tộc, hoặc nếu có thì cũng thiếu tính sinh động, dễ hiểu. Việc không sử dụng đúng “ ngôn ngữ của người nghe ” đã khiến khoảng cách giữa chính sách và người dân vẫn còn xa.

b. Thiếu hụt về nguồn nhân lực và phương thức truyền thông phù hợp

Một nguyên nhân quan trọng khác là hạn chế về đội ngũ cán bộ truyền thông cơ sở. Tại nhiều xã, thôn bản, cán bộ phụ trách công tác thông tin, tuyên truyền chủ yếu là cán bộ kiêm nhiệm, chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng truyền thông, thuyết trình, diễn giải chính sách. Nhiều người không sử dụng thành thạo tiếng dân tộc, hoặc thiếu hiểu biết về văn hóa bản địa, dẫn đến thông tin truyền đạt thiếu gần gũi, khó tạo sự tin tưởng từ phía người dân.

Bên cạnh đó, phương thức truyền thông vẫn nặng về một chiều, chủ yếu theo kiểu “đọc – chép – phổ biến” chứ chưa thực sự đối thoại, giải thích hoặc tương tác. Các phương tiện truyền thông truyền thống như loa phát thanh, bản tin, tờ rơi vẫn được sử dụng, nhưng hiệu quả chưa cao nếu thiếu yếu tố trực quan, sinh động và bản địa hóa. Những phương pháp truyền thông phù hợp với vùng dân tộc thiểu số như: kịch bản hóa chính sách, truyền thông lưu động kết hợp văn nghệ dân gian, sử dụng người uy tín nói tiếng bản địa... vẫn chưa được nhân rộng.

c. Khó khăn trong ứng dụng công nghệ và đổi mới nội dung truyền thông

Trong bối cảnh chuyển đổi số, các cơ quan truyền thông và quản lý nhà nước đang từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong truyền thông chính sách (qua mạng xã hội, nền tảng số, Cổng dịch vụ công, ứng dụng di động…). Tuy nhiên, tại Hà Giang, việc số hóa thông tin và truyền thông chính sách dân tộc vẫn còn nhiều rào cản.

Trước hết là do hạ tầng công nghệ chưa đồng bộ: nhiều địa bàn chưa có internet tốc độ cao, người dân thiếu thiết bị thông minh, không quen dùng điện thoại thông minh để tra cứu hoặc tương tác. Thứ hai là do nội dung truyền thông số hóa chưa đủ hấp dẫn, chưa thiết kế phù hợp với ngữ cảnh vùng dân tộc thiểu số, dẫn đến khó tiếp cận. Thứ ba là thiếu đội ngũ chuyên môn để sản xuất nội dung truyền thông số bằng tiếng dân tộc, với định dạng thân thiện như video, infographic, câu chuyện hóa chính sách…

Tất cả những khó khăn trên cho thấy: nếu không đổi mới cả về cách làm, người làm và công cụ truyền thông, thì chính sách dù tốt đến đâu cũng khó đến được với người dân – đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao biên giới như Hà Giang.

Truyền thông chính sách – công cụ cốt lõi bảo đảm chính sách đến với đồng bào dân tộc thiểu số

a. Truyền thông chính sách giúp rút ngắn khoảng cách giữa ý chí chính trị và đời sống người dân

Chính sách dân tộc là một trong những lĩnh vực quan trọng bậc nhất trong chiến lược phát triển bền vững quốc gia, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng, Nhà nước tới đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, thực tế cho thấy: chính sách chỉ thực sự đi vào cuộc sống khi người dân hiểu đúng, tin tưởng và tự nguyện thực hiện.

Trong bối cảnh đó, truyền thông chính sách đóng vai trò then chốt trong “chuyển hóa ý chí chính trị thành hành động xã hội”. Thông qua các hoạt động truyền thông, người dân không chỉ tiếp cận được thông tin về nội dung, mục tiêu, đối tượng và quy trình thực hiện chính sách, mà còn được giải thích bằng ngôn ngữ gần gũi, hình thức phù hợp với văn hóa bản địa. Đây chính là cách rút ngắn khoảng cách giữa “ngôn ngữ của nhà nước” và “ngôn ngữ của người dân”, giữa ý định quản lý và nhu cầu thụ hưởng thực tiễn.

b. Truyền thông chính sách góp phần xây dựng niềm tin, đồng thuận và sự tham gia của đồng bào dân tộc

Một trong những nguyên tắc của quản trị công hiện đại là đặt người dân vào trung tâm chính sách - không chỉ là người thụ hưởng mà còn là chủ thể tham gia phản biện, giám sát và cùng thực hiện. Để làm được điều đó, truyền thông chính sách phải bảo đảm công khai, minh bạch, đối thoại và lắng nghe.

Tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, truyền thông chính sách không chỉ dừng lại ở việc phổ biến thông tin mà còn có chức năng “ dẫn dắt nhận thức - tạo dựng niềm tin”. Niềm tin chính sách không thể hình thành bằng mệnh lệnh hành chính, mà phải xây dựng từng bước qua sự lắng nghe, giải thích cặn kẽ, đồng hành và tôn trọng bản sắc văn hóa. Truyền thông hiệu quả giúp người dân hiểu được chính sách vì ai – để làm gì – có lợi ích gì, từ đó hình thành sự đồng thuận tự nguyện, không mang tính áp đặt.

Ngoài ra, truyền thông còn tạo điều kiện cho người dân phản hồi ý kiến, phát hiện những điểm chưa phù hợp của chính sách với thực tiễn địa phương. Đó chính là một mạch ngầm phản biện xã hội quan trọng, giúp Nhà nước điều chỉnh chính sách kịp thời, sát thực tế và giảm thiểu rủi ro trong quá trình thực hiện.

c. Truyền thông chính sách mở đường cho đổi mới phương thức quản trị vùng dân tộc thiểu số

Hiện nay, Đảng và Nhà nước đang thúc đẩy chuyển đổi phương thức lãnh đạo - quản lý từ “quản lý bằng mệnh lệnh” sang “quản trị dựa trên dữ liệu, đối thoại và sự đồng thuận xã hội”. Trong bối cảnh đó, truyền thông chính sách chính là một mắt xích quan trọng để đổi mới cách quản trị vùng dân tộc thiểu số, nơi tồn tại nhiều rào cản về ngôn ngữ, tập quán và niềm tin truyền thống.

Thông qua truyền thông hiện đại, số hóa, tương tác đa chiều, chính quyền các cấp có thể tiếp cận người dân nhanh hơn, rộng hơn, theo dõi phản ứng chính sách tốt hơn và đưa ra các điều chỉnh linh hoạt hơn. Đặc biệt, việc sử dụng người uy tín, già làng, trưởng bản, cán bộ dân tộc... làm chủ thể truyền thông không chỉ tăng hiệu quả truyền đạt mà còn góp phần phát huy nội lực của cộng đồng, từ đó thúc đẩy quản trị đa chủ thể tại vùng dân tộc thiểu số.

Tài liệu tham khảo

1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2021), Hướng dẫn công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật đến vùng dân tộc thiểu số và miền núi, NXB Chính trị quốc gia Sự thật.

2. Chính phủ (2021), Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2030, Hà Nội.

3. Quốc hội (2019), Nghị quyết số 88/2019/QH14 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2030, Hà Nội.

4. Ủy ban Dân tộc (2023), Báo cáo tình hình thực hiện chính sách dân tộc năm 2022 và phương hướng năm 2023, Hà Nội.

5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2020), Giáo trình công tác dân tộc, NXB Lý luận chính trị.

6. Nguyễn Đình Tấn (2021), Truyền thông chính sách và quản trị phát triển vùng dân tộc thiểu số, Tạp chí Dân tộc.

7. Ngô Thị Thanh Hằng (2020), Truyền thông chính sách: Kênh kết nối chính quyền và người dân trong xã hội hiện đại., Tạp chí Lý luận chính trị.

Tin mới hơn

Audi A5 thế hệ mới và SUV điện Audi Q6 e-tron ra mắt thị trường Việt Nam

Audi A5 thế hệ mới và SUV điện Audi Q6 e-tron ra mắt thị trường Việt Nam

Để củng cố thêm danh mục sản phẩm cung cấp tại thị trường Việt Nam, Audi A5 thế hệ mới và chiếc SUV điện cao cấp Q6 e-tron đã được giới thiệu Việt Nam.
Xe điện Lucid Air Grand Touring thiết lập Kỷ lục Guinness Thế giới khi chạy 1.205 km không cần sạc lại

Xe điện Lucid Air Grand Touring thiết lập Kỷ lục Guinness Thế giới khi chạy 1.205 km không cần sạc lại

Kỷ lục Guinness ấn tượng của Lucid Air Grand Touring cho thấy năng lực phát triển công nghệ xe điện hiệu suất cao và tiết kiệm năng lượng của nhà sản xuất có trụ sở tại California, Mỹ.