![]() |
|
11 giờ đêm chúng tôi lên xe từ trụ sở chi nhánh xuất phát hướng về Đội sản xuất số 7. Chị Phùng Thị Hiền, Chủ tịch Hội phụ nữ cơ sở, nhân viên Ban Chính trị của Chi nhánh 716 (Kon Tum) úp mở bảo “các anh phải bắt bằng được cái giờ vàng này”. “Giờ vàng” theo chị Hiền nói là một hiện tượng khá đặc biệt của người công nhân cao su Chi nhánh 716 cũng như các đơn vị khác của Binh đoàn 15, ấy là giờ đưa trẻ đến trường lúc nửa đêm. Chiếc xe 7 chỗ chạy trên đường tuần tra biên giới vào lúc chuẩn bị sang ngày mới, đêm tối khiến tôi chẳng thể nhận ra bên nào là đất ta bên nào là đất bạn. Đi giữa rừng đêm vào thời khắc trước 0 giờ, tự nhiên tôi thấy xôn xao như thể đang đi đón giao thừa trước một năm mới. Chị Hiền bảo tôi: “Nhịp sống vùng biên của bọn em gắn liền với cây cao su, chả cứ người lớn, bọn trẻ con cũng phải làm quen với nhịp điệu cạo mủ từ khi còn bú đấy anh ạ”. Chưa từng làm công nhân ngày nào nhưng Hiền thuộc như bàn tay những công việc của người thợ cũng như vận hành của đội sản xuất, bởi chị đã từng là cô giáo mầm non của chính Đội sản xuất số 7. Bởi vậy Hiền muốn giới thiệu với chúng tôi về khoảnh khắc rất đặc trưng này của những công nhân cao su. Đường khá xa nên chúng tôi xuống hơi trễ, đã qua giờ gửi trẻ. Đồng hồ trên điện thoại của tôi đã sắp chạm mốc 12 giờ đêm, Hiền dẫn tôi qua trường mầm non. Khác với không khí rộn ràng, bi bô tiếng nói cười, tiếng hát của các lớp lá, lớp mầm, cả ngôi trường tịch mịch, vài bóng đèn le lói. Tôi đang băn khoăn thì Hiền ra hiệu giữ im lặng, chị rón rén hé cửa chỉ cho tôi những đứa trẻ đang ngủ ngoan cùng cô giáo. Tôi cũng vừa kịp hiểu, đúng rồi, nửa đêm ai lại bắt các cháu đến trường học múa hát hay chơi trò chơi bao giờ. Chúng đến trường chỉ để… ngủ. Những đứa trẻ sẽ được bố mẹ mang đến gửi vào… trước 12 giờ đêm, là giờ mà họ phải ra lô cao su để cạo mủ.
Toàn Chi nhánh 716 có 10 điểm trường mầm non như điểm trường tại Đội sản xuất số 7. Các đơn vị khác thuộc Binh đoàn 15, số điểm trường cũng tương đương như vậy. Được “hoa tiêu” trước nên tôi đã mai phục để theo chân Vi Văn Mưu ra lô cạo mủ. Chờ lúc Mưu phóng xe đến, dựng chiếc xe máy ở hành lang bờ lô, tôi mới lại gần cùng anh và Đội trưởng Kiều Bá Oanh tiến vào rừng cao su. Dù trong đêm, từng động tác của Mưu thoăn thoắt, đầu tiên là bóc mủ dây bám trên đường cạo, lột mủ bám trong lòng bát, “di sản” từ lần cạo trước cho vào chiếc túi vải đeo trước ngực, sau đó Mưu nhanh đóng đưa dao cạo đường cạo mới ngọt lẻm, một dải vỏ cây được lóc ra mỏng như vỏ bào của người thợ mộc nhẹ nhàng buông mình vào đêm không gây ra một tiếng động dù nhỏ. Từ vết cạo, dòng nhựa trắng như sữa chạy theo đường cạo vát 45 độ xuôi xuống máng dẫn mủ rỏ tí tách từng giọt thơm ngậy vào chiếc bát hứng bên dưới.
Trong một ca làm, người thợ sẽ phải cạo hết diện tích một vườn khoảng 1 ha, trung bình mỗi ha với khoảng cách trồng đều nhau sẽ có 555 cây cao su. Đó cũng là số cây mỗi công nhân phải cạo một đêm trong thời gian kéo dài khoảng 3 tiếng. Cạo xong họ sẽ về ngả lưng đôi chút chờ những cây cao su cho mủ. Gần 5 giờ sáng, những “thợ cạo” sẽ lại tiếp tục dậy ra lô thu mủ chở về điểm thu gom của Đội để xe bồn vận chuyển về nhà máy sơ chế thành mủ nguyên liệu. Anh Vi Văn Mưu là thợ giỏi nhiều năm liền của đơn vị. Anh thao tác nhoay nhoáy, trước mỗi gốc cao su Mưu chỉ dừng lại tác nghiệp vài chục giây. Tôi phải nhờ Mưu thao tác chậm một chút để lưu lại khoảnh khắc làm việc, vì chuyển động quá nhanh ảnh sẽ bị nhòe.
- Vì sao phải cạo mủ vào cái giờ “oái oăm” vậy? - Là bởi cây cao su cũng có “giờ vàng”, giờ mà nó có thể cho lượng mủ cao nhất, tốt nhất - Trung tá Nguyễn Thanh Bình, Trưởng ban Kỹ thuật Chi nhánh 716 trả lời thắc mắc của tôi |
|
Có lẽ suốt dải biên giới Việt Nam, trong những nơi tôi có dịp đến, chưa ở đâu ngày mới lại bắt đầu sớm như ở xã Ia Đal, huyện Ia H’Drai, tỉnh Kon Tum. Đây là huyện mới được thành lập năm 2015, tách ra từ xã Mo Rai. 4 giờ 30 sáng, Thiếu tá Kiều Bá Oanh - Đội trưởng Đội sản xuất số 7, Chi nhánh 716 đã dậy đánh kẻng báo giờ đi thu mủ. Chiếc kẻng vốn là vỏ một quả bom từ thời chiến tranh phát ra lảnh lót đánh động vùng biên đang chìm sâu trong giấc ngủ. Từ dãy nhà ở công nhân, trong các căn hộ nhỏ ánh đèn bật sáng như những tín hiệu đáp trả. Khu căng tin đối diện cổng Đội, gia đình anh Bùi Văn Mạnh cũng lục tục dọn hàng, vừa là công nhân của Đội vợ chồng anh vừa kiêm thêm công việc này. Cửa hàng nhà anh dựng trên đất của Đội, đầy đủ các vật dụng cần thiết, nhu yếu phẩm phục vụ công nhân nên cũng hoạt động theo nhịp điệu lao động nơi đây. Bố mẹ anh cũng dậy phụ giúp con.
Bà Thơm, mẹ anh Mạnh gầy chõ xôi và bánh bao ra gần lề đường để các công nhân trên đường đi thu mủ dừng lại tiện mua suất ăn sáng. Kỳ lạ thay, đàn gà trong Đội cũng đã dậy kiếm ăn thơ thẩn trong sân dưới ánh điện. Thì ra con người và vạn vật vùng biên này đều quay quanh nhịp điệu của cây cao su, của việc khai thác mủ. Điều lạ thường trong mắt tôi đã trở nên bình thường ở nơi này suốt hàng chục năm qua, kể từ khi những lứa cao su đầu tiên của Binh đoàn 15 bắt đầu cho mủ sau 7 năm trồng. Anh Mạnh làm bảo vệ tại Đội sản xuất số 7, còn vợ anh, chị Phạm Thị Thương làm công nhân. Vợ ra lô cạo mủ, chồng dọn hàng vì công việc bảo vệ của anh chưa cần có mặt. Dọn hàng xong Mạnh nhanh tay đổ cà phê ra đầy các phin và chế nước sôi sẵn để công nhân thu mủ về có cái dùng, sau đó anh lục cục lôi ra một khúc gỗ, chiếc giũa và ca nước bày lên bàn.
Tôi còn đang tò mò không biết Mạnh định làm gì, thì anh đã nhả điếu thuốc hút dở khỏi miệng đặt xuống mép bàn, cầm con dạo cạo mủ lên đưa tay vuốt vuốt như thể kiểm tra độ cùn của nó. Hóa ra anh tranh thủ mài dao cạo mủ cho vợ. Dụng cụ chuyên dụng này phần có lưỡi sắc được bẻ gập một đường gần như vuông góc, để có thể tì vào bề mặt cây và cắt đi lớp răm một cách chính xác, không dày quá, cũng không bị phạm vào thân cao su. Đó là một thao tác đòi hỏi dứt khoát, chuẩn xác nhưng cũng cần nhẹ nhàng, khéo léo. Mạnh cho biết, mỗi con dao có giá 200 nghìn đồng, mỗi lần lưỡi mòn, thợ cạo mủ sẽ đem ra lò rèn nhờ tạo hình lại lưỡi cạo với chi phí khoảng 60 nghìn đồng. Sau vài lần tạo hình lưỡi sẽ thay dao mới. Còn trong quá trình sử dụng, lưỡi dao bị cùn thì người công nhân sẽ tự mài như Mạnh đang làm. Chẳng mấy chốc con dao đã được mài sắc, sẵn sàng cho một ngày làm việc mới. Những việc làm nhỏ như vậy sẽ góp phần tăng hiệu suất làm việc cho người thợ. Trước cửa quán của anh Mạnh, những chiếc xe thu mủ lần lượt vút qua mất hút vào các lô cao su dọc ngang xung quanh Đội sản xuất số 7. |
|
Từ năm giờ sáng, chị Vi Thị Hương, Công nhân Đội sản xuất số 7, Chi nhánh 716 đã phải dậy để đi thu mủ từ những đường cạo mà chính chị đã cạo từ lúc 0 giờ. Thời gian làm việc chủ yếu ban đêm nên cũng như các công nhân cao su khác, trên đầu chị Hương là chiếc đèn pin. Khi trời sáng cũng là lúc chị hoàn tất công việc được phân nửa, chiếc đèn pin gắn trước trán được tắt đi, chị tiếp tục làm công việc thu gom mủ cao su từ các bát gắn trên thân cây đổ vào xô vốn là chiếc thùng đựng sơn. Vạt quần bảo hộ của chị từng lớp mủ cao su bám dày như thâm niên người thợ gắn bó với lô cao su đã hơn hai mươi năm, khi chị từ huyện Thường Xuân, Thanh Hóa về đầu quân cho Công ty 75, Binh đoàn 15. Khi đó đội sản xuất của chị mang tên 24, năm 2014 Chi nhánh 716 được thành lập trên cơ sở một số đội sản xuất của Công ty 75 và Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 78 thì Đội 24 của chị thuộc chi nhánh mới với tên gọi Đội sản xuất số 7 trên vùng đất mới Ia H’Drai.
Khác với chị Hương là công nhân có thâm niên, Kha Văn Tiến, quê huyện Kỳ Sơn, Nghệ An là lính mới, vừa đầu quân về Đội 7 năm 2023, tuy vậy anh cũng đã bước đầu quen với công việc. Khi tôi có mặt, số trong xô đang được Tiến rót vào các can nhựa qua một bát lọc để chở về điểm thu gom mủ của Đội. Trong các lô cao su rất nhiều muỗi, trước đây mỗi công nhân thường đốt hương muỗi dạng cây đính vào dao cạo mủ hoặc gắn trên vành mũ để tránh bị muỗi đốt khi làm việc nhiều giờ trong rừng, dần dần việc này đã được chuẩn hoá bằng phụ kiện đeo bên hông đựng hương vòng sử dụng được lâu hơn, tiện lợi và gọn gàng hơn. Như các đồng nghiệp khác, Tiến cũng trang bị cho mình thiết bị đuổi muỗi chuyên dụng. Hèn gì từ lúc vào rừng, do “tay không bắt thợ” tôi đã bị muỗi chích vô số nhát! Trời sáng dần, mủ cao su được các công nhân gom lại chở bằng xe máy, thậm chí là các xe tự chế từ các lô về điểm tập kết. Sau khi nhập cho Đội, những can mủ mới thơm mùi sữa được đổ vào bể chứa. Mủ cao su chở về được vào sổ sau khi cân trọng lượng. Ở căn phòng kế bên, Đại úy Văn Trọng Vượng - Đội phó Đội sản xuất số 7 ngồi trước chiếc cân tiểu li chia từng cốc mủ trắng đặt lên cân, nhìn rất giống đang ngồi… ăn sữa chua.
Anh Vượng giải thích, mỗi lô sẽ được lấy mẫu với một mã số riêng, số mủ mẫu này lại được lấy ra một định lượng thống nhất để cô đặc lại theo cách thủ công "chiên" khô trên bếp ga hoặc cũng có thể cho cả loạt vào lò vi sóng. Chất rắn thu được sau cô đặc sẽ lại được đặt lên cân tiểu li để ghi nhận trọng lượng. Mẫu này gọi là TSC, bao gồm cả tạp chất, loại bỏ tạp chất mới là định lượng mủ cao su, được viết tắt là DRC. Đây sẽ là căn cứ để đánh giá hàm lượng mủ nhập về từ các lô. |
|
“Cao su cho chu kỳ khai thác trung bình là 24 năm, bắt đầu sang năm thứ 7, khi đạt chu vi 50cm ở vị trí 1,3 mét từ gốc lên cây mới đủ tiêu chuẩn để cạo mủ. Sau khi mở đường cạo dưới lần đầu ở mỗi bên, mỗi lần 6 năm, khi chuyển cạo tái sinh cây sẽ được mở thêm đường cạo trên. Người thợ bám theo chu kì ấy mà khai thác cho đúng kỹ thuật” - anh Lương Đỗ Sinh, Đội sản xuất số 3, Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 78 dừng tay cạo giải thích cho tôi. Lô cao su anh đang cạo là đã được 3 lần 6 năm ấy, bây giờ anh đã phải dùng đến con dao cạo cán dài hơn một mét mới vươn tới miệng cạo. Anh Sinh sinh năm 1979, đã gắn bó với lô cao su 22 của Đội sản xuất số 3 từ khi mới trồng. Năm 2000, anh vào làm công nhân và gắn bó với vùng giáp biên thuộc xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, Kon Tum. Vợ của anh là người chung chuyến xe vào Tây Nguyên làm công nhân cạo mủ. Cùng cảnh xa quê, cùng chịu chung những khó khăn gian khổ nơi góc trời biên giới, anh chị bén duyên chồng vợ. Cỗ cưới ra mắt đơn vị chỉ là 3 mâm cơm với chi phí 500 nghìn đồng dưới sự chứng kiến của Hội phụ nữ, Công đoàn, Đoàn Thanh niên và chỉ huy đội. Do điều kiện xa xôi, chung sống với nhau mấy năm anh chị mới về quê ra mắt hai bên gia đình, cho hai bên nội ngoại gặp gỡ, làm quen với nhau. Sau đó vợ chồng lại tiếp tục vào Tây Nguyên với cao su.
Anh Sinh vẫn nhớ cảm giác thấp thỏm của lứa công nhân đầu đời khi những cây cao su mình chăm sóc sắp đến ngày cho mủ. Anh chính là 1 trong 10 công nhân đầu tiên của đơn vị được đi học cạo mủ. Học rồi mà vẫn run run trước đường cạo đầu tay, vì băn khoăn không biết liệu mình cạo có đúng kĩ thuật không, liệu mình cạo cây có ra mủ không. Thế rồi dòng mủ đầu tiên ấy đã chảy mãi đến nay, nối dài đời công nhân của chàng trai Xứ Thanh khi ấy mới 26 tuổi đến hôm nay, khi anh đã thành người đàn ông trung niên ở tuổi 46. Ngày các công nhân tứ xứ đầu quân về Mo Rai, đơn vị tạo điều kiện cắt đất cho làm nhà, xóm nhỏ đông vui, đùm bọc khiến những công nhân cảm thấy ấm lòng, no đói có nhau. Anh Sinh nhớ mãi khi vợ sinh đứa con đầu, một đêm mưa bão, giông lốc cuốn bay những mái nhà tạm của khu dân cư, vội vã từ lô cao su chạy về gặp nhà ai sập đổ anh đều lao vào trợ giúp chèo chống, che chắn đồ đạc giúp, về đến nhà mình cuối cùng anh thấy vợ đang ôm con ngồi khóc, một nửa mái nhà sau bão đã cuốn đi mất từ bao giờ. Điều đó khiến anh vừa thương vợ, vừa trách mình có chút vô tâm khi lẽ ra phải nghĩ đến vợ con trước hết. |
Đấy là năm 2005, đứa con đầu của anh chị bây giờ cũng đã thành sinh viên đại học. Vợ chồng anh Sinh gắn bó với lô cao su số 22 này từ những ngày mỗi cái cây như một đứa trẻ bấy bớt chả khác gì những đứa con của họ, nay thì đàn trẻ ấy cũng đã trưởng thành, đang cho mủ sung sức. Anh chị yêu mến và quen thuộc đến từng gốc cây, đến nỗi về hưu rồi vẫn chẳng muốn rời. Vợ anh Sinh đã nghỉ hưu thật. Chị hơn anh 3 tuổi nên đã được hưởng chế độ hưu từ năm 2023 nhưng vẫn nhận khoán diện tích cao su của Công ty để tiếp tục công việc chăm sóc, khai thác mủ, cùng chồng lao động dưới những tán rừng biên giới. Đứng bên anh Sinh tại lô cao su số 22, Đại tá Nguyễn Trường Vinh - Đoàn trưởng Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 78 hồ hởi nói với tôi: “Tay nghề của người thợ quyết định đến năng suất, sản lượng của vườn cây. Nhờ thao tác đúng kỹ thuật, các lô cao su của đơn vị dự kiến tuổi thọ khai thác mủ sẽ kéo dài thêm so với thông thường đến 5, 6 năm”. Trong những lô cao su đó có lô của vợ chồng anh Sinh. Đó cũng là điều khiến anh chị vui nhất vì những cống hiến cả đời mình cũng mang lại một điều gì đó cụ thể có thể nhìn thấy được, như một niềm tự hào để lại cho đơn vị. |
|
Người thợ cao su không lạ gì kỹ thuật cạo mủ tái sinh trên thân cây cao su. Sau khi mở miệng cạo ban đầu và cạo liên tục 6 năm, miệng cạo tiếp theo sẽ được chuyển sang mặt đối diện của cây. 6 năm sau quay lại, miệng cạo cũ đã được cây đùn lớp vỏ mới đầy lên như một sự chữa lành, người thợ sẽ lại tiếp tục mở miệng cạo lần 2 trên lớp vỏ tái sinh này. Và tôi cũng đã gặp những mảnh đời tái sinh trên vùng đất cao su sát biên giới. Chiều muộn ấy tôi đã ngồi với nữ công nhân Vũ Thị Lan trong khu dân cư thuộc Đội sản xuất số 8, Chi nhánh 716. Chị Lan là người có mặt ngay từ ngày đầu thành lập Chi nhánh và đồng hành với những lô cao su ở đây, gắn bó với dải đất vùng biên này. Năm 2011 chị và nhóm nữ công nhân mới từ Ia Grai, Gia Lai vào đây lập nghiệp. Ngày ngày những người thợ đi đào hố, đảo phân trồng cao su, mỗi hố có kích thước 60 x 60 x 60 cm. Đêm đêm nghe tiếng khỉ kêu nai tác mà nẫu lòng. Có hôm đi làm chị bắt gặp con kỳ đà lừng lững giữa đường, nó giương mắt nhìn chị như lạ lẫm, như thách thức. Lan dậm chân đuổi nó mới lững thững bò vào rừng. Ngày ấy lợn rừng, hoẵng có lúc còn phi cả vào đơn vị, thú rừng chẳng sợ người, nghiễm nhiên lao vào tấn công công nhân trong vườn. Cao su trồng xuống được một hai năm, nai rừng vẫn ra gặm trơ lớp vỏ, cây chết nhiều quá. Vấn đề thú phá hoại cây trồng có lúc đã trở nên nóng bỏng trong các cuộc họp. Con số thống kê lên đến 8.770 cây, tương đương với diện tích 16 ha. Đơn vị đã ra nghị quyết lãnh đạo, thống nhất số cây trồng phải sống ít nhất 98%. Chết cây nào trồng dặm cây ấy.
Các anh đi trước nhìn cảnh nữ nhi quần quật việc nặng nơi rừng thiêng nước độc cứ than, “trời ơi, như thế này mấy em làm sao chịu được”. Chính chị cũng đã có lúc tưởng không chịu được nữa. Có đêm trời mưa, bão giật tung chiếc lều bạt dựng tạm để ở, mấy chị em đứa ôm cột giữ “nhà” đứa thu gom gạo, cá khô, là những nhu yếu phẩm chiến lược, bọc áo mưa cho khỏi ướt mai mốt còn có cái mà ăn. Nghĩ lại nhiều lúc chị vẫn không hiểu mình đã vượt qua những ngày tháng đó bằng sức mạnh nào. Nhưng nghĩ lại thì mảnh đất tận cùng này cũng cho chị nhiều thứ. Đã một lần đò, vào Ia H’drai đánh cược tương lai nơi đường xa dặm thẳm, chị Lan phải gửi con cho ông bà ngoại. Nhưng mảnh đất này đã chìa tay với chị, hơn một năm sau chị đã tìm được hạnh phúc mới với anh Nguyễn Kim Trí, công nhân lái máy ủi hơn mình 5 tuổi. Cưới xong chị về đón con gái vào ở cùng, cả gia đình gắn bó với Đội sản xuất số 8 từ ấy. Sau 6 năm chăm sóc cao su, đến năm 2017 thì cây cho mủ. Thế là chị Lan làm “thợ cạo” từ đó đến nay cũng đã bảy năm. Bây giờ có công nhân mới về đội cần dạy nghề cạo mủ thì chị Lan thành trợ giảng, thực hành để các em học theo.
Cô con gái đầu của chị Lan, cháu Vũ Thị Mai Vân Phương sinh năm 2003, theo mẹ vào Đội, lớn lên cũng trở thành công nhân cao su và bén duyên với một chàng công nhân. Hiện gia đình chị và cả gia đình con gái đều là công nhân của Đội sản xuất số 8. Vợ chồng chị phụ trách 9 vườn, tương đương 9 ha cao su, mỗi đêm chị cạo và thu mủ khoảng 200 gốc. Cuộc sống đang dần ổn định và tương lai đã mỉm cười sau những ngày gian khó với người phụ nữ có phần già dặn so với tuổi và đã lên chức bà ngoại. Gia đình chị Lan cũng thuộc diện có mức thu nhập cao của Đội sản xuất số 8. Cuối năm cao su đang căng mủ, mỗi ngày chị cạo và nộp sản lượng mủ từ 3 đến 5 tạ, mức lương trung bình được 18,5 triệu đồng một tháng. Đó quả là mức thu nhập mơ ước với mỗi công nhân cao su. Các công nhân khác thu nhập bình tuân tầm 8,2 triệu đồng một tháng.
Đời sống của người thợ bây giờ cũng đỡ vất vả hơn. Mới hơn mười năm mà nơi đây đã khác quá nhiều. Xóm công nhân của Đội 8 giờ đây đã đông đúc, nhiều người đã đón bố mẹ, người thân ở quê vào ở cùng để hỗ trợ việc nhà, trông nom con cái… |
|
Thiếu tá Kiều Bá Oanh có 30 năm gắn bó với Tây Nguyên, với cây cao su thì có tới 20 năm làm đội trưởng. Chàng trai Phúc Thọ, Hà Tây cũ vẫn nhớ thuở mới từ quê vào, nhìn rừng cao su thay lá, tất cả đều vàng úa một màu đã buột miệng hỏi người đội trưởng: “Ô! Sao cao su nó chết hàng loạt thế kia hả anh?”, người đội trưởng cười hiền kể cho “tấm chiếu mới” nghe về mùa cao su thay lá. Vào mỗi cuối năm, sau khi cho mủ xong, bước vào mùa khô cây cao su sẽ trút hết lá để chống hạn. Ba tháng ấy cũng là lúc người công nhân dừng cạo mủ để chăm bón cho cây. Mỗi năm một lần rừng cao su thay lá. Bây giờ, đã 30 mùa cao su thay lá cũng là 30 năm anh Oanh gắn bó với cao su, gia đình anh vẫn ở Đức Cơ, Gia Lai, nơi anh chị nên duyên và lập nghiệp, còn anh một mình gắn bó với Đội sản xuất số 7, ngày hai lần đánh kẻng hiệu lệnh đi cạo mủ, thu mủ vào 12 giờ đêm và 4 giờ 30 sáng.
Đời công nhân cao su không tránh khỏi những nốt trầm. Tôi vẫn nhớ cuộc trò chuyện giữa đêm vùng biên ấy với Vi Văn Mưu, khi tôi hỏi điều gì nhớ nhất sau chừng ấy năm gắn bó với đất này, Mưu bảo khi em vào đây mới 17 tuổi, một lần ngồi máy cày (công nông) đi trồng cao su, đường sóc khiến em bị rơi xuống ngất xỉu. Lặng đi đôi chút Mưu giơ bàn chân chìa cho tôi xem vết sẹo dài. Anh kể lại lần cắt cỏ trong lô cao su bằng máy, lưỡi dao va vào đá đã tuột ốc văng vào chân chém ngang một vết song song với bàn chân sâu vào đến một nửa. Vợ Mưu làm cùng đã hoảng hốt báo về Đội, anh em đưa Mưu xuống trạm y tế rồi chuyển ra Bệnh xá Binh đoàn. Vết thương được khâu nhưng vì chưa vệ sinh hết, bên trong còn cỏ nên lại bị nhiễm trùng phải lên Bệnh viện Quân y 15 mổ lại. Nằm viện mất hơn một tháng Mưu mới trở về Đội. Sau này bàn chân anh bị co rút, ai tinh ý sẽ nhận ra anh đi lại không hoàn toàn bình thường.
Mưu bảo như anh là còn may, trường hợp công nhân Cầm Bá Đoàn còn bị nặng hơn, cũng là dao cắt cỏ văng nhưng trúng vào ống chân, tiện ngang gần đứt lìa “ống đồng”. Anh em phải gỡ cánh cửa ở nhà chỉ huy Đội làm cáng khiêng xuống bệnh xá và đưa lên ô tô chở đi cấp cứu. Chữa trị xong anh Đoàn đi giám định, thương tật 22%, chưa đủ để hưởng chế độ, vì theo quy định phải mất 31% sức khỏe mới đạt. Bây giờ anh Đoàn làm bảo vệ tại Đội sản xuất 11. Rời xã vùng biên Ia Đal, tôi đi trên đường tuần tra biên giới, giữa bạt ngàn màu xanh cao su. Bên đường biên xanh này, hình bóng những thợ cao su vẫn thoắt ẩn thoắt hiện, lặng thầm dưới những tán rừng. Cây cao su đã gắn bó với những thế hệ người thợ Binh đoàn 15, trở nên gần gũi thân thương, như biểu tượng của Binh đoàn. Và màu xanh vùng biên ấy cũng ẩn chứa biết bao câu chuyện về cuộc đời những người thợ. |