Niềm vui khi được là công dân Việt Nam
Niềm vui khi được là công dân Việt Nam
Niềm vui khi được là công dân Việt Nam

Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt – Lào không chỉ được thể hiện qua những trang sử vàng đấu tranh giành độc lập, mà còn được cụ thể hóa bằng những nỗ lực không ngừng nghỉ trong việc bảo vệ quyền lợi của nhân dân hai bên biên giới.

Từ năm 2007, hai Bộ Tư pháp Việt Nam và Lào đã cùng nhau đặt nền móng cho hành trình phối hợp giải quyết vấn đề quốc tịch đối với đồng bào di cư tự do và kết hôn không giá thú sống ở khu vực biên giới chung. Sau nhiều năm bền bỉ trao đổi, thảo luận, tháo gỡ khó khăn về pháp lý và thực tiễn, với tinh thần trách nhiệm cao và tình nghĩa sâu đậm, đến năm 2013, hai Chính phủ đã chính thức ký kết Thỏa thuận về việc giải quyết vấn đề này.

Để góp phần giải quyết tình trạng quốc tịch của dân di cư tự do tại các địa phương, đặc biệt là dân di cư ở khu vực biên giới như đã nêu trên, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã đưa ra quy định cho phép “Người không quốc tịch mà không có đầy đủ giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ hai mươi năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định” (Điều 22).

Niềm vui khi được là công dân Việt Nam

Công an xã A Dơi, huyện Đăkrông, tỉnh Quảng Trị tặng quà cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn ở thôn A Dơi Đớ. Ảnh: Vân Anh.

Để “mục sở thị” thành quả quan trọng và ý nghĩa ấy, chúng tôi theo chân những cán bộ Tư pháp huyện Hướng Hóa và cán bộ Đồn Biên phòng Ba Tầng, Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị đến tuyên truyền Luật Biên phòng Việt Nam tại xã A Dơi huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Đúng dịp khắp xóm bản tổ chức Đại hội chi bộ các thôn, bản nên từ Trung tâm xã A Dơi dẫn đến các bản cờ sao rạng rỡ, tiếng loa phát thanh di động bằng tiếng Việt và ngôn ngữ bản địa vang vang trên những con đường trong các thôn bản làng.

Sau hai tiếng vượt đèo dốc để đến với thôn A Dơi Dớ, chúng tôi gặp Thiếu tá Lê Đức Luận - Trưởng Công an xã A Dơi đang hướng dẫn người dân cài đặt tài khoản định danh điện tử tại thôn biên giới đặc biệt này. Nói là đặc biệt, bởi những công dân ở đây được gọi bằng một cái tên rất buồn là “bản xâm cư” từ năm 1998.

Người dân ở bản này vốn sinh sống nhiều đời ở đây, nhưng thời kỳ chiến tranh, họ lùi sâu hơn vào rừng. Khu vực đó khi hoạch định biên giới quy thuộc thành lãnh thổ của Lào, vì thế cả bản trở thành công dân Lào. Ở trên đất Lào, nhưng nương rẫy, mồ mả tổ tiên của những hộ dân này chủ yếu ở đất Việt, nên từ năm 1995 đến năm 2000, họ lần lượt bảo nhau tìm về quê cha đất tổ.

Mặc dù chính quyền, bộ đội biên phòng, công an xã thường xuyên vận động bà con quay trở lại Lào, nhưng bà con vẫn một lòng xin ở lại Việt Nam. Và suốt 20 năm qua, những con người này sống không quốc tịch, không hộ khẩu, bởi vậy không có bất cứ quyền công dân nào. Họ không được tiếp cận với những chính sách hỗ trợ của Nhà nước, không được đầu tư cơ sở hạ tầng, chấp nhận cảnh “một gốc, hai ngọn”. Trẻ em ở “bản xâm cư” thì đi học “chui”, đi học “nợ” vì không có giấy khai sinh, không có học bạ nên chỉ có thể theo cái chữ đến hết cấp 2.

Nhưng kể từ tháng 4 năm 2019, 41 hộ với gần 300 nhân khẩu người Vân Kiều ở đây đã được nhập quốc tịch Việt Nam. Và mới đây, công an xã đã cùng với cơ quan tư pháp xã rà soát dân cư, tiến hành lên danh sách, làm thẻ cử tri cho gần 192 người trong độ tuổi và đủ điều kiện tham gia bầu cử đợt này.

Trong câu chuyện của mình, già làng Hồ Văn Kía nhắc đến khoảnh khắc ông Hồ Văn Tháo, cán bộ Tư pháp xã cùng với đoàn cán bộ đến thông báo tin vui trong một ngày xuân năm 2019. Lúc ấy cả bản mừng hơn ngày hội A-riêu-ping 5 năm chỉ tổ chức có một lần.

“Cán bộ Tháo là người có ơn với “bản xâm cư” nhiều lắm, nó đi lại hỗ trợ dân bản làm giấy tờ, khai lý lịch, làm hộ khẩu cho bà con. Dân chúng tôi đều yêu quý anh Tháo” – già Kia bảo.

Niềm vui khi được là công dân Việt Nam

Những công dân Lào đón nhận quyết định của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho nhập quốc tịch Việt Nam. Ảnh: Anh Khoa.

Vui không kém người dân A Dơi Đớ là 53 người thuộc diện di dân tự do từ Lào sang sinh sống lâu dài tại 2 huyện biên giới Ngọc Hồi và Đăk Glei của tỉnh Kon Tum.

Không giấu niềm vui khi chính thức được công nhận là công dân Việt Nam, anh Say Xạ Nạ, sinh năm 1979 tại Lào, hiện trú tại thôn Đắk Ôn, xã Đắk Long, Đắk Glei đã bày tỏ lòng cảm ơn vì sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam và chính quyền địa phương đã hỗ trợ làm các thủ tục pháp lý, tạo điều kiện cho anh cùng hàng chục hộ khác được nhập quốc tịch Việt Nam.

“Từ nay tôi là người Việt Nam rồi, tôi sẽ đàng hoàng tham dự các hoạt động cộng đồng của buôn làng mà không cần phải e dè, mặc cảm nữa” – Say Xạ Nạ phấn khởi nói.

Mừng đến mức ngày nào cũng mang Quyết định của Chủ tịch nước ra ngắm là cảm xúc của bà Un Lợ, sinh năm 1950, trú tại thôn Đắc Ro, xã Đắc Tôi, huyện Nam Giang, Quảng Nam. Bà Lợ vốn là người Việt lấy chồng Lào, rồi chuyển về xã Đăk Tôi sinh sống từ năm 1993 cùng với một số hộ dân khác. Từ đó, những người này không được công nhận quốc tịch Việt Nam vì thuộc diện di cư tự do nên chỉ được chính quyền cho đăng ký tạm trú, không được vay vốn sản xuất, đứng tên sở hữu nhà cửa, ruộng đất vì không hộ khẩu.

“Tôi phải mang phận xâm cư ngay trên mảnh đất quê hương. Con cái đi học không được hỗ trợ tiền, gạo, bảo hiểm y tế. Nay tôi đã thỏa tâm nguyện được là người Việt Nam, con cháu tôi đã được cấp giấy khai sinh, được công an xã làm hộ khẩu, chứng minh nhân dân để yên tâm sinh sống” – bà Un Lợ bùi ngùi.

Niềm vui khi được là công dân Việt Nam

Thượng tá Trịnh Văn Kiên, Chính trị viên Đồn Biên phòng cửa khẩu Tén Tằn giới thiệu cho chúng tôi cặp vợ chồng đã có tuổi hiện đang sống ở bản Đoàn Kết, xã Tén Tằn, huyện Mường Lát.

Ông Lam Phon sinh năm 1959 bén duyên với cô gái Việt Hà Thị Thiên, sinh năm 1955 kể từ năm 1994. Như những cặp vợ chồng khác, ngày ngày bà làm nương, buôn bán nhỏ còn ông làm nghề hàn xì nông cụ, khung sắt thép cho người dân trong vùng. Thấm thoắt đã 25 năm chung sống, sinh con đẻ cái, cần cù làm ăn trên đất Việt, Lam Phon đã coi mình là cư dân lâu năm ở Mường Lát.

Niềm vui khi được là công dân Việt Nam

Niềm vui của ông Hà Văn Mồn và bà Hà Thị Thiên ở xã Tén Tằng, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa khi cầm trên tay Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Ảnh: Vân Anh.

Cho chúng tôi xem đăng ký kết hôn còn thơm mùi giấy mực, ông Lam Phon bảo: “Cái giấy này xác nhận tôi chính thức được là công dân Việt Nam mang tên Hà Văn Mồn, là chồng hợp pháp của bà Hà Thị Thiên. Có cái giấy này, bà nhà tôi mỗi khi cúng ma cho tổ tiên bên Lào cũng không còn e ngại bởi luật tục nữa. Con trai chúng tôi cũng vui khi bố mẹ đã là “vợ chồng hợp pháp”. Huyện cũng đã hỗ trợ cho chúng tôi có đất sản xuất, có con giống để lập đàn, chúng tôi yên tâm hưởng tuổi già rồi”.

Cũng trong năm 2019, theo Quyết định số 1373/QĐ-CTN ngày 14-8-2019 của Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về việc cho nhập quốc tịch Việt Nam, 44 người Lào cư trú trên địa bàn huyện Mường Lát và 7 người cư trú tại huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa cũng chính thức được nhập quốc tịch.

Vậy là 44 cặp vợ chồng trên vùng biên xa xôi này sau hàng chục năm chung sống, sinh con đẻ cái đã có niềm vui bình dị như bao người khác là được đăng ký kết hôn, được pháp luật thừa nhận quan hệ hôn nhân. Những đứa trẻ sẽ không còn phải học “chui”, học “nợ” như trước.

Niềm vui khi được là công dân Việt Nam

UBND tỉnh Thanh Hóa công bố và trao Quyết định của Chủ tịch nước về việc cho nhập quốc tịch Việt Nam cho bà con ở huyện Mường Lát. Ảnh: Vân Anh.

Đến thăm gia đình chị Y Ngin, sinh năm 1970 tại Lào, hiện làm dâu tại thôn Đắk Ba, xã Đắk Dục, Ngọc Hồi, Kon Tum, chúng tôi thấy chị đang ngồi bên hiên nhà miệt mài “phắn phải” (se sợi - PV). Gương mặt chị sáng bừng khi nhắc đến việc mình vừa được cán bộ Phòng Cảnh sát Quản lý Hành chính về trật tự xã hội, Công an tỉnh Kon Tum hướng dẫn làm thẻ căn cước có ảnh và dấu vân tay của mình.

Sau khi được nhập quốc tịch, đời sống bà con người Lào ở Đăk Dục đã có nhiều thay đổi. Gia đình chị cũng như bà con khác được cấp đất, có thẻ bảo hiểm y tế, được quan tâm nhiều chế độ, chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

“20 năm sang Việt Nam làm dâu, tôi và con lầm lũi như con thú hoang trên rừng, lúc nào cũng thấp thỏm sợ bị đuổi về Lào, phải chia cắt gia đình. Giờ chúng tôi đã là vợ chồng hợp pháp, các con dựng vợ gả chồng cũng có giấy tờ để đăng ký kết hôn. Vui lắm.” - chị nói.

Có thể thấy được rằng, những năm trước đây, khi chưa được nhập quốc tịch Việt Nam, về mặt pháp lý, những cặp vợ chồng này và con cháu của họ chưa được xác định tư cách công dân một cách đầy đủ. Thực trạng này không những làm cho cuộc sống của họ gặp nhiều khó khăn, mà còn làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong việc quản lý dân cư tại địa phương, an ninh biên giới giữa hai nước. Với sự tích cực của các cấp ngành, hiện số công dân thuộc đối tượng kể trên được nhập quốc tịch Việt Nam. Nhờ đó, đã mang lại nhiều thay đổi đáng kể đối với nhân thân, cuộc sống của họ cũng như địa bàn họ cư trú.

Bài viết: Vân Anh - Ngô Khiêm

Đồ họa: Trường Giang