
Những điểm mới quan trọng của Luật sửa đổi Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức |
Đạo đức công vụ và văn hóa giao tiếp – Nền tảng cho bộ máy công quyền liêm chính, gần dân
Một trong những điểm nhấn quan trọng của Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 24/7/2025 là việc quy định rõ ràng, đầy đủ hơn về đạo đức công vụ và văn hóa giao tiếp của đội ngũ cán bộ, công chức – những người trực tiếp thi hành quyền lực công, giữ vai trò kết nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
![]() |
Đa số các đại biểu đều bày tỏ sự đồng tình cao với các nội dung cốt lõi của dự thảo Luật và cho rằng những sửa đổi, bổ sung là cần thiết và phù hợp với thực tiễn. (Ảnh: CTV/Vietnam+). |
Luật đã khẳng định yêu cầu cán bộ, công chức phải “có đạo đức trong sáng, mẫu mực, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong thực thi công vụ”, đồng thời nhấn mạnh tinh thần yêu nước, trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; phải có bản lĩnh, tinh thần đổi mới, sáng tạo, hội nhập quốc tế; gương mẫu, tu dưỡng suốt đời (Điều 12).
Đây không chỉ là nguyên tắc đạo đức mang tính hình thức, mà là cốt lõi tạo nên giá trị và hiệu quả của nền hành chính quốc gia. Trong một xã hội hiện đại, khi niềm tin của người dân ngày càng gắn chặt với trải nghiệm thực tiễn trong tiếp xúc với công quyền, thì thái độ, chuẩn mực ứng xử và đạo đức công vụ của cán bộ là thước đo niềm tin, là hình ảnh đại diện cho uy tín của Đảng và Nhà nước.
Đáng chú ý, Luật lần này dành riêng Điều 13 quy định về văn hóa giao tiếp – một nội dung trước đây chưa được luật hóa rõ ràng. Không chỉ yêu cầu cán bộ, công chức lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp trong công sở, Luật còn quy định cụ thể về tác phong, ngôn ngữ, thái độ khi tiếp xúc với nhân dân: phải đeo thẻ công chức, giao tiếp chuẩn mực, khiêm tốn, không được hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho dân, cho doanh nghiệp. Những quy định này thể hiện sự chuyển biến trong tư duy lập pháp – coi văn hóa công vụ là một thiết chế mềm nhưng có tác dụng cứng, tạo nên sự khác biệt của một nền công vụ văn minh, nhân ái, đặt người dân vào vị trí trung tâm của phục vụ.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cả hệ thống chính trị đang thúc đẩy mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền số và chính phủ phục vụ. Dù có ứng dụng công nghệ hiện đại đến đâu, nếu người thực thi không có đạo đức và văn hóa công vụ thì mọi cải cách đều có nguy cơ bị vô hiệu hóa. Ngược lại, khi cán bộ, công chức có tinh thần phụng sự, biết lắng nghe, biết gỡ khó cho người dân và doanh nghiệp bằng tinh thần trách nhiệm và thái độ văn minh, thì đó chính là hình ảnh đẹp nhất về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Chính sách trọng dụng nhân tài trong Luật Cán bộ, công chức: Bước đột phá cho nền công vụ chuyên nghiệp
Trong nhiều năm qua, việc thu hút và sử dụng người có tài vào khu vực công luôn là một bài toán hóc búa, đòi hỏi sự thay đổi không chỉ về cơ chế mà còn về tư duy quản lý. Với việc luật hóa các quy định về trọng dụng nhân tài tại Điều 4 và Điều 21 của Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi), Quốc hội đã chính thức mở ra một chương mới cho công cuộc kiến tạo nền công vụ chuyên nghiệp, nơi nhân tài thực sự được chào đón, trân trọng và phát huy.
Lần đầu tiên, Luật Cán bộ, công chức định nghĩa rõ “người có tài năng trong hoạt động công vụ” không chỉ dựa vào bằng cấp hay thâm niên, mà được xác định trên cơ sở năng lực chuyên môn vượt trội, khát vọng cống hiến, tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, cùng với những kết quả, sản phẩm cụ thể mang lại giá trị thiết thực cho tổ chức và xã hội. Đây là một bước tiến đáng kể, đưa khái niệm nhân tài thoát khỏi vòng bao cấp hình thức, để hướng đến giá trị thực và hiệu quả công vụ.
Điểm đột phá là Nhà nước cho phép ký hợp đồng công vụ với chuyên gia, nhà khoa học, luật sư giỏi, doanh nhân tiêu biểu, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc… vào làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội. Điều này thể hiện một tư duy mở – khuyến khích dòng chảy ngược của chất xám từ khu vực tư nhân, học thuật về khu vực công; phá vỡ rào cản giữa các hệ thống nhân sự công – tư; đồng thời đáp ứng nhu cầu cấp bách về nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Quan trọng hơn, Luật trao quyền cho người đứng đầu các Bộ, ngành, địa phương được xác định lĩnh vực ưu tiên và quyết định chính sách trọng dụng nhân tài phù hợp với yêu cầu phát triển của từng nơi, trong khuôn khổ quy định chung của Chính phủ. Điều này tạo nên một cơ chế linh hoạt, phân cấp gắn với trách nhiệm, đồng thời giảm thiểu tình trạng cào bằng hay tuyển dụng hình thức vốn đã gây lãng phí tài năng trong nhiều năm qua.
Đổi mới đánh giá công chức: Hướng tới nền hành chính lấy kết quả làm trung tâm
Một trong những điểm cải cách có tính căn cơ nhất của Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi) là hệ thống đánh giá công chức – từ lâu vốn bị xem là hình thức, cào bằng, thiếu cơ sở để phân biệt người làm tốt và người không hoàn thành nhiệm vụ. Với quy định mới từ Điều 25 đến Điều 27, Luật đã từng bước thay đổi cách tiếp cận: chuyển từ đánh giá định tính sang đánh giá định lượng, liên tục, đa chiều, đặt kết quả và sản phẩm công vụ làm trung tâm.
Trước hết, Luật khẳng định nguyên tắc đánh giá công chức phải đảm bảo “dân chủ, công khai, công bằng, minh bạch, khách quan, xuyên suốt, liên tục”, đồng thời yêu cầu ứng dụng mạnh mẽ khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong việc theo dõi, đánh giá, xếp loại chất lượng công chức. Điều này đặt ra yêu cầu cải cách không chỉ ở công cụ đánh giá mà cả trong tư duy của người quản lý – từ cảm tính sang dữ liệu, từ ấn tượng sang kết quả đo đếm được.
Nội dung đánh giá cũng được mở rộng, đi từ những yếu tố truyền thống như phẩm chất chính trị, đạo đức công vụ, ý thức kỷ luật đến những tiêu chí hiện đại như tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Đặc biệt, Luật nhấn mạnh đến yêu cầu gắn đánh giá với vị trí việc làm, lấy sản phẩm cụ thể và hiệu quả thực tế làm thước đo chính, thay vì chỉ dựa vào số năm công tác hoặc bằng cấp.
Điểm mới rất đáng chú ý là quy định về xếp loại chất lượng hằng năm theo 4 mức: Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ, hoàn thành nhiệm vụ và không hoàn thành nhiệm vụ. Kết quả này không chỉ để lưu hồ sơ, mà được sử dụng làm căn cứ quan trọng cho việc quy hoạch, bổ nhiệm, khen thưởng, bố trí lại vị trí việc làm, cho thôi việc hoặc xử lý kỷ luật. Đây chính là bước tiến rõ ràng để từng bước xây dựng nền công vụ theo cơ chế thưởng – phạt minh bạch, dựa trên hiệu suất thực tế.
![]() |
Sửa đổi Luật Cán bộ, công chức là bước quan trọng trong việc hoàn thiện và xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, hiện đại. |
Thực tiễn cho thấy, ở một số địa phương, bộ, ngành đã từng bước thí điểm mô hình “khoán sản phẩm công vụ”, gắn trách nhiệm và thu nhập với kết quả cụ thể, và đã thu được những tín hiệu tích cực. Việc luật hóa các nguyên tắc đánh giá định lượng và đưa vào áp dụng từ 01/01/2026 là tiền đề để nhân rộng các mô hình này, tạo ra một nền hành chính thực sự “lấy kết quả làm trung tâm, lấy người dân và doanh nghiệp làm thước đo chất lượng phục vụ”.
Ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý cán bộ, công chức – Động lực cho quản trị hiện đại
Trong thời đại mà công nghệ số đang làm thay đổi tận gốc cách thức vận hành của bộ máy nhà nước trên toàn thế giới, việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào quản lý cán bộ, công chức không còn là lựa chọn mà là yêu cầu tất yếu. Với Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi), Quốc hội đã chính thức luật hóa nội dung này tại Điều 40 và Điều 42 – xem đó là một trụ cột quan trọng trong tiến trình xây dựng nền công vụ hiện đại, hiệu quả và minh bạch.
Theo quy định mới, hệ thống quản lý cán bộ, công chức phải được thực hiện trên nền tảng số, với cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức đóng vai trò trung tâm. Thay vì quản lý bằng hồ sơ giấy thủ công, tản mạn, thiếu liên thông, Luật yêu cầu tất cả các thông tin về cán bộ, công chức – từ lý lịch, quá trình công tác, vị trí việc làm, xếp loại, khen thưởng, kỷ luật… – đều phải được số hóa, cập nhật đồng bộ trên hệ thống điện tử và được phê duyệt, xác thực theo quy trình chuẩn hóa. Đây là bước tiến quan trọng nhằm bảo đảm tính nhất quán, kịp thời, và chính xác trong công tác quản trị nhân sự khu vực công.
Không chỉ dừng lại ở cơ sở dữ liệu, Luật còn yêu cầu ứng dụng công nghệ trong đánh giá, xếp loại công chức, trong tuyển dụng, bổ nhiệm, quy hoạch, đào tạo… Một nền công vụ hiện đại đòi hỏi phải đo lường được hiệu quả làm việc một cách khách quan – điều mà các công cụ kỹ thuật số hoàn toàn có thể hỗ trợ, thông qua việc tích hợp phần mềm quản lý công việc, phần mềm chấm điểm hiệu suất, nền tảng phản hồi từ người dân, cơ chế báo cáo tiến độ công tác theo thời gian thực…
Đặc biệt, trong bối cảnh sáp nhập các đơn vị hành chính từ ngày 1/7/2025, khi số lượng cán bộ, công chức được tinh giản, điều động, bố trí lại trên quy mô toàn quốc, thì việc số hóa dữ liệu và kết nối thông tin liên ngành, liên vùng trở thành điều kiện tiên quyết để tránh lãng phí nguồn nhân lực, bảo đảm công bằng trong phân công nhiệm vụ, đồng thời hỗ trợ cho việc giám sát và đánh giá hiệu quả công tác sau điều chuyển.
Từ luật hóa trách nhiệm người đứng đầu đến kiến tạo văn hóa trách nhiệm trong khu vực công
Một trong những chuyển biến đáng chú ý của Luật Cán bộ, công chức (sửa đổi) là việc lần đầu tiên quy định cụ thể, toàn diện trách nhiệm của cán bộ, công chức là người đứng đầu. Điều này không chỉ bổ sung một nội dung quan trọng về kỹ thuật lập pháp, mà còn thể hiện một chuyển động lớn trong tư duy thể chế – từ chỗ phân tán trách nhiệm sang đề cao trách nhiệm cá nhân gắn với vị trí lãnh đạo, quản lý.
Theo Điều 8 của Luật, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị không chỉ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao, mà còn phải chủ động kiểm tra, đôn đốc, phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; bảo đảm cắt giảm thủ tục hành chính; tổ chức thực hiện văn hóa công sở; giải quyết khiếu nại, tố cáo; xử lý vi phạm trong nội bộ; và quan trọng hơn, chịu trách nhiệm nếu để xảy ra sai phạm trong phạm vi quản lý. Đây là sự mở rộng khái niệm trách nhiệm – không dừng ở trách nhiệm cá nhân trực tiếp, mà bao trùm cả trách nhiệm quản lý, giám sát và xây dựng văn hóa tổ chức.
Việc luật hóa những nội dung này là hoàn toàn phù hợp với tinh thần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nơi mọi quyền lực đều được kiểm soát bằng trách nhiệm, nơi quyền hạn đi liền với nghĩa vụ giải trình. Đặc biệt trong giai đoạn sáp nhập đơn vị hành chính, tinh giản biên chế, khi quy mô tổ chức mở rộng và nguồn nhân lực bị phân tán, thì vai trò, bản lĩnh và đạo đức công vụ của người đứng đầu càng trở nên then chốt. Không ai khác, người đứng đầu chính là người tạo ra khí chất, văn hóa, hiệu suất và hình ảnh của tổ chức mà mình lãnh đạo.
Thực tế cho thấy, nhiều vụ việc tiêu cực, sai phạm kéo dài trong thời gian qua – từ buông lỏng quản lý, lãng phí ngân sách, trì trệ trong giải quyết thủ tục hành chính đến vi phạm đạo đức công vụ – đều có phần lỗi lớn từ người đứng đầu thiếu trách nhiệm, né tránh, hoặc không có năng lực kiểm soát nội bộ. Trách nhiệm tập thể không thể là tấm lá chắn để che chắn sai phạm cá nhân, càng không thể là nơi “hòa cả làng” trong những vụ việc gây tổn hại đến lòng tin của người dân.
Trong bối cảnh toàn hệ thống chính trị đang đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, thì việc xác lập rõ trách nhiệm người đứng đầu không chỉ là một yêu cầu về mặt pháp lý, mà còn là đòn bẩy để hình thành một “văn hóa trách nhiệm” mới trong khu vực công – nơi mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý đều ý thức được rằng: mình phải chịu trách nhiệm đến cùng với từng quyết định, từng hành vi và cả với văn hóa tổ chức mà mình tạo ra.
Tin mới hơn

Chính phủ sẽ điều chỉnh bảng lương mới cho giáo viên mầm non, phổ thông: Cơ hội và kỳ vọng

Chốt phương án đề xuất Chính phủ tăng lương tối thiểu vùng 7,2% từ ngày 1/1/2026

Ninh Bình: Công đoàn tích cực tuyên truyền phòng, chống tác hại của thuốc lá
Tin tức khác

Đảm bảo bữa ăn ca an toàn, vì sức khỏe người lao động

Cai nghiện thuốc lá điện tử ở thanh thiếu niên: Cha mẹ cần đồng hành, không áp đặt

Hành trình 365 ngày của bác sĩ đồng hành với người cai nghiện thuốc lá

Hơn 6.000 người tham gia thi trực tuyến phòng, chống tác hại thuốc lá

Đề xuất 2 phương án tăng lương tối thiểu vùng từ 1/1/2026
