Đẩy mạnh nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam trong tình hình mới
Nghiên cứu

Đẩy mạnh nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam trong tình hình mới

ThS Lê Ngọc Duy, Viện Nghiên cứu chiến lược và Tạp chí Lao động - Công đoàn
Trong bối cảnh thế giới và trong nước biến đổi sâu sắc, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam.

Bài viết chỉ rõ và phân tích những lý do chính trở nên đặc biệt cấp thiết, cấp bách, có tính thời sự trong việc cần phải xác định, nhận diện và làm rõ địa vị chính trị - xã hội, thực trạng, đặc điểm, vấn đề đối với GCCN Việt Nam trong tình hình mới. Là cơ sở khoa học – thực tiễn cho việc xây dựng GCCN hiện đại, lớn mạnh; đồng thời củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng, phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế.

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách”[1]. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển và hoàn thiện lý luận ngày càng được đặt lên hàng đầu, một trong những nhiệm vụ đó là nghiên cứu về GCCN đã được nhấn mạnh trong nhiều văn bản, tài liệu quan trọng của Đảng. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/01/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” chỉ rõ: “Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về GCCN trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế”. Bởi đây là cơ sở cho việc tham mưu, đề xuất xây dựng chiến lược, ban hành chính sách về xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam với Đảng, Nhà nước nói chung; nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn Việt Nam nói riêng.

Đẩy mạnh nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam trong tình hình mới

GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng - Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương phát biểu tại Hội thảo Khoa học quốc gia “Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh”. Ảnh: Thu Thanh.

Với mục tiêu xây dựng và phát triển đồng bộ Nhà nước pháp quyền XHCN, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xác định, nhận diện và làm rõ địa vị chính trị - xã hội, thực trạng, đặc điểm, vấn đề và những định hướng chính sách đối với GCCN Việt Nam trở nên đặc biệt cấp thiết, cấp bách, có tính thời sự, bởi ba lý do chính sau đây:

Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu củng cố sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, trong xã hội nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tính khoa học và tính cách mạng và những giá trị bền vững trong lý luận của chủ nghĩa Mác –Lênin về GCCN, về Đảng Cộng sản, về CNXH đã được thống nhất cao. Tuy nhiên, những thay đổi của hoàn cảnh lịch sử, những nét mới của thời đại ngày nay đặt ra bối cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội mới, đòi hỏi phải có nhận thức mới, lý luận mới mang tính bổ sung, cập nhật, và cần thiết là điều chỉnh.

Xoay quanh chủ thể GCCN, hiện nay ở nước ta còn những vấn đề lý luận thực tiễn chưa đủ rõ, chưa thuyết phục, còn có nhiều ý kiến khác nhau. Ví dụ, khi xem xét khái niệm GCCN, ý kiến cho rằng: GCCN Việt Nam chỉ bao gồm những người lao động công nghiệp và dịch vụ mà lao động của họ có tính chất công nghiệp, áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất; lao động trong các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế. Tuy nhiên, cũng có ý kiến mở rộng nội hàm khái niệm khi cho rằng: GCCN bao gồm tất cả những người lao động trong mọi loại hình doanh nghiệp, những trí thức, kỹ sư, cán bộ lãnh đạo, quản lý, những đảng viên, công chức, viên chức trong bộ máy nhà nước đều là công nhân.

Thậm chí, có ý kiến cho rằng, trong thời đại ngày nay, GCCN đã hòa tan vào các giai tầng xã hội. Về vị trí, vai trò chính trị của GCCN, có quan điểm cho rằng, thời đại ngày nay, vai trò lãnh đạo cách mạng đã thuộc về tầng lớp trí thức và chỉ có trí thức mới có vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời đại văn minh trí tuệ. Về địa vị kinh tế của GCCN, có ý kiến cho rằng, GCCN ngày nay không còn là lực lượng sản xuất cơ bản, chủ yếu, mà trong nền sản xuất hiện đại, khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và có ý nghĩa quyết định trong nền sản xuất hiện đại...

Đẩy mạnh nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam trong tình hình mới

Giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh cùng đất nước. Ảnh: Bá Thi

Do sự chưa thống nhất về tư tưởng trong Đảng, hay trong nhận thức xã hội, dẫn đến sự lợi dụng công kích của các thế lực thù địch. Trên một số diễn đàn điện tử, thông qua các hình thức khác nhau, chủ nghĩa tư bản cùng các thế lực thù địch, các kẻ cơ hội chính trị đã đưa ra một số luận điểm xuyên tạc sai trái như: Học thuyết về sứ mệnh lịch sử của GCCN không còn phù hợp nữa bởi trong điều kiện hiện đại, nhà tư bản không còn bóc lột sức lao động của GCCN, mà đó là sự thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động. Ngoài ra, Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là Đảng của GCCN vì có rất ít tính công nhân, mà mang đậm tính nông dân, phong kiến…; hoặc Đảng không còn mang bản chất của GCCN, do đó GCCN và Đảng Cộng sản Việt Nam không thể lãnh đạo, xây dựng được CNXH đích thực ở Việt Nam. Chúng còn lập luận trong điều kiện cải thiện kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần như hiện nay, GCCN đã mất đi tính “xung đột cách mạng”, “đối kháng giai cấp”, GCCN đã hoàn thành sứ mệnh của mình trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong bộ máy lãnh đạo của hệ thống chính trị Việt Nam đa phần là trí thức, rất ít cán bộ lãnh đạo xuất thân từ GCCN. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam không mang bản chất của GCCN Việt Nam…

Trước tình hình tư tưởng chưa thống nhất, các thế lực thù địch ra sức lợi dụng xuyên tạc, công kích, nhu cầu cấp thiết là cần phải tập trung nghiên cứu làm rõ, để tạo sự thống nhất cao trong Đảng, đồng thuận trong xã hội, và phải đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thật vững chắc, khoa học và tiến bộ.

Thứ hai, xuất phát từ nhu cầu, đòi hỏi cấp thiết phải nhanh chóng xây dựng GCCN hiện đại lớn mạnh để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Qua gần 40 năm đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nước ta đã bước vào một chặng đường mới, với mục tiêu tổng quát: phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN. Cùng với đó, GCCN nước ta đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa đạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức; đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong liên minh GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, việc làm và đời sống của GCCN ngày càng được cải thiện.

Tuy nhiên, sự phát triển của GCCN chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Địa vị chính trị của GCCN chưa thể hiện đầy đủ. GCCN còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỉ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết tha phấn đấu vào Đảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội. Nhìn tổng quát, lợi ích một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và nhưng đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn.

Những vấn đề trên đang ngày càng trở nên cấp bách, đòi hỏi việc nhận diện, nắm bắt và giải quyết không chỉ từ thực tiễn, chính sách, mà còn cần xây dựng GCCN cả trên khía cạnh nghiên cứu lý luận, chính trị.

Thứ ba, xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của tổ chức Công đoàn Việt Nam.

Tổ chức Công đoàn Việt Nam là tổ chức đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng cho GCCN và người lao động. Trách nhiệm của tổ chức công đoàn các cấp, là phải tham gia trực tiếp xây dựng GCCN hiện đại, lớn mạnh. Điều này đã được Đảng ta khẳng định nhiều lần trong các nghị quyết quan trọng của Đảng.

Đẩy mạnh nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam trong tình hình mới

Đ/c Nguyễn Đình Khang, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đến thăm hỏi công nhân tại Quảng Nam. Ảnh: Nguyễn Linh.

Việc nghiên cứu đặc điểm mới của GCCN, những vấn đề đặt ra đối với xây dựng GCCN trong bối cảnh mới, từ đó đề xuất định hướng chính sách xây dựng GCCN là vấn đề có tính thời sự, tính khoa học, đặc biệt là tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá X) “Về tiếp tục xây dựng GCCN Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” xác định xây dựng tổ chức công đoàn lớn mạnh, phát huy vai trò của công đoàn trong xây dựng giai cấp công nhân[2]. Vì thế rất cần nghiên cứu, cập nhật để nắm được những vấn đề của GCCN Việt Nam, đề xuất chính sách phù hợp với GCCN Việt Nam trong tình hình mới.

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ ra những nhiệm vụ cơ bản trong xây dựng GCCN Việt Nam là: xây dựng GCCN hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động…; đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế; tập trung làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, tập thể công nhân; định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay.

Đặc biệt, Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 12/6/2021 của Bộ Chính trị “Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới” xác định mục tiêu tổng quát là: xây dựng Công đoàn Việt Nam vững mạnh toàn diện, có năng lực thích ứng và giải quyết các vấn đề đặt ra, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới; là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của Đảng, Nhà nước; làm tốt vai trò cầu nối, giữ mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với GCCN, người lao động; xứng đáng là tổ chức đại diện lớn nhất, trung tâm tập hợp, đoàn kết GCCN và người lao động cả nước; góp phần xây dựng GCCN Việt Nam hiện đại, lớn mạnh, là lực lượng tiên phong trong thực hiện nhiệm vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Do vậy, nhu cầu đặt ra của tổ chức công đoàn là cần nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, sâu sắc, cụ thể về GCCN Việt Nam để hiểu rõ hơn về bản chất giai cấp, đặc điểm, vấn đề và từ đó hình thành cơ sở đề xuất định hướng chính sách xây dựng GCCN Việt Nam hiện đại, lớn mạnh trong những năm tiếp theo. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với nền tảng, tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua đó góp phần thiết thực xây dựng Đảng, tuyên truyền và phát triển lý luận của Đảng trong tình hình mới.

*

Bối cảnh thế giới đang trải qua những thay đổi mang tính thời đại, tạo ra nhiều thời cơ, thách thức đan xen; trong nước đang triển khai những quyết sách chiến lược mang tính cách mạng, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới cao hơn. Vì vậy, việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn về GCCN Việt Nam trong tình hình mới sẽ góp phần thiết thực làm luận cứ cho Đảng, Nhà nước nói chung và tổ chức Công đoàn Việt Nam nói riêng trong xây dựng GCCN ngày càng hiện đại, lớn mạnh, tạo tiền đề đưa đất nước vững bước tiến mạnh trong kỷ nguyên phát triển mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, tr.181-182, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2008): Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá X) về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh

Bối cảnh mới của toàn cầu hóa và cuộc CMCN 4.0 đang tác động sâu sắc vào sản xuất, quản lý và đời sống xã ...

Dự báo xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045 Dự báo xu hướng biến đổi của giai cấp công nhân Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045

Sau gần 40 năm đổi mới, nhất là từ khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai ...

Tin tức khác

Một hướng đi khoa học, cần thiết và thực tiễn

Một hướng đi khoa học, cần thiết và thực tiễn

Chiều 25/6, tại Hà Nội, buổi nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp Tổng Liên đoàn “Tăng cường năng lực tiếp cận thông tin của người lao động ngành Dệt may Việt Nam” đã chính thức diễn ra.
Truyền thông cho đoàn viên, người lao động là quá trình dẫn dắt cảm xúc và xây dựng niềm tin

Truyền thông cho đoàn viên, người lao động là quá trình dẫn dắt cảm xúc và xây dựng niềm tin

Bài nghiên cứu phân tích sự thay đổi trong hành vi tiếp cận thông tin của người lao động ngành Dệt May trong bối cảnh chuyển đổi số. Trên cơ sở phỏng vấn sâu, nhóm tác giả chỉ ra hiệu quả, rào cản và đề xuất giải pháp nâng cao truyền thông nội bộ. Truyền thông không chỉ là cung cấp thông tin, mà còn là quá trình tạo niềm tin và gắn kết người lao động với doanh nghiệp, công đoàn.
Chuyển đổi công bằng trong ngành Dệt May Việt Nam: thực trạng và giải pháp

Chuyển đổi công bằng trong ngành Dệt May Việt Nam: thực trạng và giải pháp

Chuyển đổi công bằng là khái niệm xuất phát từ phong trào lao động quốc tế, nhằm đảm bảo rằng quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, phát triển bền vững không gây thiệt hại cho người lao động (NLĐ) và cộng đồng. Trong bối cảnh toàn cầu đang đẩy mạnh nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, chuyển đổi công bằng đảm bảo quyền lợi cho NLĐ thông qua việc hỗ trợ đào tạo lại, tạo việc làm mới, đảm bảo an sinh xã hội, và sự tham gia của các bên liên quan trong quá trình hoạch định chính sách.
Cống hiến của đồng chí Hoàng Quốc Việt trên cương vị người đứng đầu tổ chức Công đoàn Việt Nam

Cống hiến của đồng chí Hoàng Quốc Việt trên cương vị người đứng đầu tổ chức Công đoàn Việt Nam

Đồng chí Hoàng Quốc Việt (1905-1992) là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc đời đồng chí là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng của người cộng sản kiên trung, suốt đời phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.
Tăng cường vai trò công đoàn trong gắn kết kinh tế với xã hội

Tăng cường vai trò công đoàn trong gắn kết kinh tế với xã hội

Hiện nay, trong sự phát triển kinh tế - xã hội và nhìn nhận về sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và xã hội ở Việt Nam, chúng ta đang thấy kinh tế vẫn được quan tâm và chú trọng hơn. Điều này có nguyên nhân xuất phát từ chính sách coi kinh tế là trọng tâm được thực hiện kể từ khi Việt Nam đổi mới và mở cửa nền kinh tế.
Tăng cường năng lực tiếp cận thông tin của người lao động: Góc nhìn từ ngành Dệt may Việt Nam

Tăng cường năng lực tiếp cận thông tin của người lao động: Góc nhìn từ ngành Dệt may Việt Nam

Quyền tiếp cận thông tin của người lao động không chỉ là vấn đề pháp lý mà còn là yếu tố quyết định trong việc xây dựng môi trường làm việc minh bạch, công bằng và ổn định. Trong ngành Dệt may Việt Nam, nơi chủ yếu là lao động nữ với trình độ phổ thông, việc thực thi quyền này lại đối mặt với nhiều thách thức. Bài viết này phân tích thực trạng quyền tiếp cận thông tin trong ngành Dệt may, từ những khó khăn trong công tác truyền thông đến những hạn chế về chính sách pháp luật. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người lao động, thúc đẩy sự minh bạch và phát triển bền vững trong ngành.
Xem thêm