![]() |
Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, tại Việt Nam, số lao động có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản) quý IV/2024 là 33,2 triệu người, chiếm 63,6% trong tổng số lao động có việc làm. Tính chung năm 2024, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 64,6% . Con số này chỉ thấp hơn mức trung bình của các quốc gia có thu nhập thấp (88,3%) và nhóm nước có thu nhập trung bình thấp (81,5%) nhưng cao hơn nhiều mức trung bình chung của thế giới (57,8%). Lao động phi chính thức chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn với tỷ lệ là 74,1%, khu vực thành thị là 49,2%; và có tỷ trọng tương đối lớn không phụ thuộc giới tính: ở cả nam và nữ, tương ứng là 67,6% và 61,0% . Điều này cho thấy tình trạng phổ biến của bộ phận lao động này trong thị trường lao động Việt Nam.
Công việc chủ yếu của họ là những việc làm không chính thức được xác định dựa trên việc không có hợp đồng lao động hoặc/và không tham gia bảo hiểm xã hội (bao gồm cả bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện). Những công việc có thể kể đến như bán hàng rong, bán hàng tại các khu chợ dân sinh, chợ đầu mối; phụ hồ, thợ xây dựng; cửu vạn, bốc xếp hàng hóa tự do; lái xe ôm, chở hàng; giúp việc gia đình; công nhân viên vệ sinh, bảo vệ... Đáng chú ý là bộ phận lao động này không chỉ làm việc trong khu vực phi chính thức mà còn làm việc khá đông trong khu vực chính thức. Báo cáo lao động có việc làm phi chính thức ở Việt Nam công bố con số gần 6 triệu lao động phi chính thức đang làm việc trong khu vực chính thức, trong đó 47,8% là hộ sản xuất kinh doanh cá thể và 36,9% là trong các doanh nghiệp tư nhân.
Họ thường làm các công việc giản đơn, ít đòi hỏi trình độ kỹ năng hoặc trình độ chuyên môn kỹ thuật, vì vậy cũng đem lại mức thu nhập thấp cho NLĐ. Số liệu chỉ ra hiện có khoảng 35,3% lao động phi chính thức làm nghề giản đơn, chiếm tỷ trọng cao nhất trong 9 nhóm nghề có sự tham gia của lao động phi chính thức. Số lao động phi chính thức làm các công việc có trình độ cao (như nhà chuyên môn kỹ thuật bậc cao; nhà chuyên môn kỹ thuật bậc trung; nhân viên văn phòng) chỉ chiếm tỷ trọng rất thấp khoảng 1,9%. Với vị trí việc làm như vậy, mức thu nhập từ công việc chính của lao động phi chính thức rơi vào khoảng 4,4 triệu đồng, chỉ bằng một nửa thu nhập của lao động chính thức là 8,2 triệu đồng. Đáng chú ý là khoảng 45,4% những người tự làm phi chính thức có mức thu nhập thấp hơn mức lương tối thiểu vùng. Tỷ lệ này ở nhóm lao động phi chính thức làm công hưởng lương là 25,7%. Thực trạng này khiến người lao động tự do thường phải làm việc nhiều hơn: 35,6% lao động phi chính thức làm việc quá 48 giờ/tuần; và hơn 10,8% phải lựa chọn làm nhiều công việc cùng một lúc để có thể đảm bảo đủ thu nhập trang trải cuộc sống cho cả gia đình. Những công việc họ làm thường là công việc tự do, khoán việc, nên chủ yếu đều là những việc có điều kiện làm việc không đảm bảo. Người bán hàng rong thì rong ruổi qua các con phố, không có chỗ cố định, chịu ảnh hưởng nhiều bởi điều kiện thời tiết; người phụ hồ thì chỉ được trang bị những thiết bị bảo hộ lao động tối thiểu, đôi khi là phải tự chuẩn bị. Với những lao động làm thuê thì quyền, phương tiện, môi trường tại nơi làm việc của họ cũng không được đảm bảo. Bởi, phần lớn chủ sử dụng lao động của họ là các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, cơ sở gia đình có quy mô tài chính tương đối hạn hẹp. Vì thế, trang bị cho NLĐ chỉ luôn ở mức cơ bản. Với những điều kiện công việc như vậy, lao động tự do luôn đứng trước những rủi ro gặp phải trong quá trình lao động và cuộc sống. Tuy nhiên họ lại không được bao phủ bởi lưới an sinh. Số liệu thống kê cho thấy, có đến 97,8% lao động phi chính thức không tham gia vào bất kì một loại hình bảo hiểm nào, một tỷ lệ nhỏ (2,1%) tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và chỉ có 0,1% lao động phi chính thức có bảo hiểm xã hội bắt buộc. Việc đa số lao động phi chính thức không tham gia bảo hiểm xã hội đang đặt ra những hệ lụy to lớn cho NLĐ khi gặp rủi ro dẫn đến mất thu nhập, tổn thương về sức khỏe, tuổi tác cũng như những thách thức lớn cho hệ thống an sinh xã hội quốc gia. Đi tìm nguyên nhânCâu hỏi đặt ra luôn là, tại sao công việc vất vả, thu nhập bấp bênh và thiếu ổn định như vậy nhưng NLĐ lại chọn làm những công việc đó, thậm chí là trong thời gian dài? Có tới 41,1% lao động phi chính thức đã làm công việc thiếu ổn định này từ 3 đến 9 năm và 39,1% làm từ 9 năm trở lên. Và tại sao họ lại ít tham gia bảo hiểm xã hội, một chính sách hỗ trợ phòng cho lao động trước những rủi ro có thể xảy đến? Kết quả từ khảo sát do tổ chức Hathaway Policy thực hiện năm 2024 đối với lao động tự do trên địa bàn các tỉnh đồng bằng sông Hồng cho thấy: Rào cản khiến NLĐ không/khó chuyển được sang những công việc có tính ổn định hơn đến từ cả phía NLĐ (trình độ, tuổi tác và hoàn cảnh gia đình) lẫn phía người sử dụng lao động (áp lực tài chính). Những công việc không chính thức có thời gian linh hoạt, công việc không đòi hỏi yêu cầu quá cao về trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn, gần nhà, dễ dàng cho NLĐ chăm lo cho những việc gia đình khác như đón con, chăm sóc bố mẹ ốm đau... Thêm nữa, những công việc vặt, thỏa thuận miệng, khoán công thường nhiều, dễ dàng được nhận, đặc biệt ở những vùng nông thôn, làng nghề. Hơn 30% người được khảo sát khẳng định khó khăn trong chuyển đổi việc làm là bởi họ có trình độ hạn chế. Thực tế này tương khớp với con số thống kê, 87,3% lao động phi chính thức là những người không được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, cao gấp 2 lần tỷ trọng chưa qua đào tạo của lao động chính thức: 44,8%. Trình độ càng cao thì tỷ lệ lao động phi chính thức càng giảm, xu hướng này quan sát được qua nhiều năm và ở cả hai giới, nam và nữ . Bên cạnh đó, tuổi tác cũng là yếu tố khiến họ khó khăn để có thể tìm được công việc tốt hơn. Lao động tự do có tỷ trọng lớn ở nhóm dân số từ 15 đến 19 tuổi và nhóm lao động từ 60 tuổi trở lên, lần lượt là 83,7% và hơn 90%. Tỷ lệ này giảm mạnh ở nhóm tuổi 20 đến 24 với 61,8% và bắt đáy ở nhóm tuổi 25-29, với 54,5%. Sau độ tuổi 29, tỷ lệ phi chính thức của lao động bắt đầu tăng lên và tăng mạnh từ nhóm tuổi 45-49 trở đi. Có thể lý giải điều này bằng việc NLĐ ở độ tuổi quá trẻ (từ 15 – 19 tuổi) hoặc đã qua độ tuổi lao động (60+) thường phải chấp nhận làm các công việc thiếu bền vững, dễ bị tổn thương hơn lao động ở các nhóm tuổi khác do chính đặc điểm về tuổi tác của mình.
Báo cáo “Nền kinh tế phi chính thức và việc làm bền vững: hướng dẫn nguồn chính sách hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang phi chính thức” của ILO chỉ ra sự trùng lặp thường xuyên giữa phi chính thức và nghèo đói. Những tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao với tỷ lệ lao động làm việc trong khu vực NLNTS cao thường sẽ có tỷ lệ lao động phi chính thức cao như Điện Biên, Sơn La, Lai Châu với tỷ lệ lao động phi chính thức là 85,4%, 85,7% và 79,1%, tương ứng với tỷ lệ hộ nghèo là 34,5%, 28,6% và 27,9%. Ngược lại, ở một số tỉnh năng động, tập trung nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương có tỷ lệ hộ nghèo chỉ chưa đến 0,3% thì tỷ lệ lao động phi chính thức lần lượt là 48,0%, 42,5% và 34,5%.
Trước những khó khăn mà lao động tự do đang gặp phải, những năm gần đây, Nhà nước đã thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm y tế toàn dân để bao phủ lưới an sinh tới những đối tượng này, phần nào chăm sóc sức khỏe, có chế độ hưu trí, tử tuất khi về già. Nhưng thực tế số lao động tự do tham gia rất ít. Thậm chí, họ còn nhầm lẫn giữa bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội, giữa bảo hiểm xã hội và bảo hiểm nhân thọ. Bên cạnh trình độ, nhận thức còn nhiều hạn chế thì do thu nhập của lao động còn quá bấp bênh, thiếu ổn định, nên không có điều kiện để tham gia các loại hình bảo hiểm và đóng tiền định kỳ. Chính vì vậy, cần có nhiều hơn nữa các chính sách cụ thể về bảo vệ lao động tự do trước những bấp bênh, rủi ro họ có thể gặp phải. Luật Bảo hiểm xã hội 2024 đã có nhiều nội dung được bổ sung, sửa đổi để tăng tính hấp dẫn và bao phủ tốt hơn cho đối tượng lao động tự do như bổ sung chế độ thai sản vào trong Bảo hiểm xã hội tự nguyện, rút ngắn thời gian được hưởng lương hưu xuống còn 15 năm tối thiểu tham gia BHXH... Mặc dù vậy, vấn đề về mức đóng và cách thức đóng cũng cần có những nghiên cứu để có phương án phù hợp hơn với NLĐ tự do có thu nhập thấp và không ổn định, không thường xuyên. Có như vậy, người lao động mới sẵn sàng tham gia BHXH, có được sự bao phủ của lưới an sinh đến cuối đời. Ngoài ra, cần tiếp tục thúc đẩy quá trình chính thức hóa việc làm phi chính thức song song với nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường lao động khu vực phi chính thức gắn với đảm bảo an sinh xã hội cho NLĐ. Những chi phí đến từ việc chính thức hóa doanh nghiệp và chính thức hóa sử dụng lao động hiện cũng được coi là áp lực tài chính không nhỏ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh có nguồn vốn ít, quy mô nhỏ lẻ. Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi) cũng đã đề cập tới một số chính sách đối với lao động tự do như: Quy định chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm theo hướng tạo cơ hội tiếp cận cho mọi lao động có nhu cầu; Quy định chính sách hỗ trợ việc làm theo hướng chủ động, bao phủ cả nhóm lao động không có giao kết hợp đồng lao động; Quy định các chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho một số nhóm lao động yếu thế, đặc thù... Tuy vậy, vẫn cần chú trọng mở ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho lao động tự do thông qua (1) đào tạo nghề và (2) việc xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động, tăng cường kết nối cung cầu và tạo cơ hội cho NLĐ. Đào tạo, bồi dưỡng cho NLĐ không chỉ dừng lại ở việc đào tạo nghề, mà còn cần chú trọng nâng cao trình độ kỹ năng nghề nghiệp sẽ tăng thêm cơ hội để NLĐ có thể duy trì việc làm, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc trong bối cảnh mới, cũng như dễ dàng tìm kiếm việc làm thỏa đáng cho bản thân. Cuối cùng, cần có những nỗ lực ở cả phía chính quyền, cơ sở đào tạo nghề và doanh nghiệp trong tạo lập một hệ sinh thái kết hợp đào tạo, dự báo nhu cầu tuyển dụng và phát triển kỹ năng. Sự hợp tác này sẽ giúp các cơ sở đào tạo chủ động xây dựng chương trình học đáp ứng xu hướng của thị trường lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh, thích nghi của NLĐ cũng như sức chống chịu của thị trường lao động trước những thay đổi trong bối cảnh phát triển bền vững. |