e magazine
28/11/2022 15:17
Bài 1: Đặc thù về tổ chức, hoạt động của Công đoàn trong hệ thống chính trị Việt Nam

28/11/2022 15:17

Vị trí của tổ chức Công đoàn trong hệ thống chính trị Việt Nam được xác lập qua quá trình hình thành và phát triển hơn 90 năm qua. Công đoàn có vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị, có nhiều đặc điểm khác biệt với các tổ chức chính trị - xã hội khác.

Bài 1: Đặc thù về tổ chức, hoạt động của Công đoàn trong hệ thống chính trị Việt Nam

Hệ thống chính trị Việt Nam gồm ba thành phần là: Đảng Cộng sản, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc tập hợp các đoàn thể, tổ chức Nhân dân. Ba thành phần này gắn bó chặt chẽ với nhau, hợp thành một hệ thống chính trị thống nhất, vận hành theo quan hệ chức năng có tính nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Ba “tiểu hệ thống” chính trị gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng chung mục đích xây dựng, phát triển đất nước, tiến lên Chủ nghĩa xã hội, do Đảng Cộng sản lãnh đạo (1).

Về hệ thống chính trị Việt Nam và vai trò, vị trí của tổ chức Công đoàn trong hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị Việt Nam nắm giữ toàn bộ hệ thống các quyền lực xã hội trên thực tế, từ quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước đến các quyền lực khác trong xã hội, trong đó có các quyền lực về xây dựng, hoàn thiện, tổ chức thực thi, kiểm sát việc thực thi hệ thống thể chế phát triển.

Vị trí của tổ chức Công đoàn trong hệ thống chính trị Việt Nam được xác lập qua quá trình hình thành và phát triển hơn 90 năm.

Sự ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam gắn liền với sự hình thành, phát triển của giai cấp công nhân và hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Người đã đặt nền móng chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”, Người nhấn mạnh: “Công hội trước hết là để đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ. Bốn là giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”. Năm 1925, nhiều cán bộ thanh niên cách mạng dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đã trở về nước hoạt động trong phong trào công nhân. Năm 1929, ba tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thành lập 3/2/1930), bước đầu đáp ứng được yêu cầu của phong trào yêu nước và phong trào công nhân, nhất là ở các tỉnh miền Bắc. Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của công tác vận động công nhân và tăng cường sức mạnh cho tổ chức Công hội, ngày 28/7/1929, theo Quyết định của Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng chí Nguyễn Đức Cảnh triệu tập Hội nghị đại biểu Công hội đỏ Bắc kỳ họp lần thứ Nhất (tại số nhà 15 phố Hàng Nón, Hà Nội). Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành lâm thời gồm 6 ủy viên, do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh phụ trách. Hội nghị đã thông qua Chương trình, Điều lệ, phương hướng hoạt động và quyết định xuất bản Báo Lao động và Tạp chí Công hội đỏ. Sự ra đời của Công đoàn Việt Nam có ý nghĩa to lớn, đánh dấu sự lớn mạnh của phong trào công nhân và sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam.

Bài 1: Đặc thù về tổ chức, hoạt động của Công đoàn trong hệ thống chính trị Việt Nam

Tạp chí Công hội đỏ ra đời năm 1929. Ảnh: TƯ LIỆU CỦA TẠP CHÍ LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĐOÀN

Ngay trong quá trình chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng, Công hội đỏ (28/7/1929) đã là một trong những tổ chức quần chúng trung kiên, mạnh mẽ và được những người cộng sản quan tâm thành lập. Công hội đỏ của giai cấp thợ thuyền Việt Nam cùng với các tổ chức quần chúng khác của nông dân, trí thức, các nhà công thương … dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trở thành lực lượng quần chúng rộng khắp cùng góp sức đấu tranh giành nền độc lập. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, giai cấp công nhân và Nhân dân Việt Nam trở thành người chủ của đất nước, từ đây và suốt mọi giai đoạn lịch sử của cách mạng sau này, Công đoàn trở thành tổ chức chính trị - xã hội hữu cơ của chế độ mới. Vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn đã được xác định ngày càng rõ hơn trong thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị nước Việt Nam.

Có thể khái quát các giai đoạn phát triển của Công đoàn Việt Nam thành ba thời kỳ: Thời kỳ chưa có chính quyền, Công đoàn có vai trò là trường học đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc. Thời kỳ xây dựng Chủ nghĩa xã hội: Công đoàn có vai trò là trường học quản lý, trường học kinh tế, trường học Xã hội chủ nghĩa của người lao động (NLĐ). Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, vai trò của Công đoàn tiếp tục được khẳng định, Công đoàn có quyền đại diện cho NLĐ, có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho NLĐ; tham gia trên các lĩnh vực chính trị - kinh tế - xã hội.

Với nguồn gốc lịch sử ra đời và phát triển như vậy, Công đoàn là thành viên trong hệ thống chính trị xã hội Việt Nam. Trong đó, mối quan hệ với thiết chế chính trị được xác lập như sau: Với Đảng, Công đoàn chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chỗ dựa vững chắc và là sợi dây chuyền nối liền quần chúng là công nhân, viên chức, lao động với Đảng. Với Nhà nước, Công đoàn là người cộng tác đắc lực, bình đẳng tôn trọng lẫn nhau. Ngược lại, Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý và cơ sở vật chất cho Công đoàn hoạt động. Với tổ chức chính trị - xã hội khác, Công đoàn là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hạt nhân trong khối liên minh công, nông, trí thức, bình đẳng, tôn trọng, tạo điều kiện cho nhau hoạt động (thông qua các Nghị quyết liên tịch…).

Về vị trí, vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam:

Điều 1 Luật Công đoàn năm 2012 và Điều 10, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định vị trí, vai trò, trách nhiệm của Công đoàn trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Theo đó, Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của NLĐ được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho NLĐ, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của NLĐ; tuyên truyền, vận động NLĐ học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (2).

Như vậy, công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, là một tổ chức quần chúng rộng lớn nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Công đoàn xuất hiện khi giới công nhân biết ý thức về sức mạnh tập thể và biết chăm lo bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Công đoàn phát triển theo sự lớn mạnh của giai cấp công nhân.

Bài 1: Đặc thù về tổ chức, hoạt động của Công đoàn trong hệ thống chính trị Việt Nam

Bà Bùi Thị An - đại biểu Quốc hội khóa XIII. Ảnh: THC

Vai trò của tổ chức Công đoàn Việt Nam không ngừng phát triển, mở rộng qua các thời kỳ. Ngày nay, trong giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vai trò của Công đoàn Việt Nam tác động trên các lĩnh vực (3):

Trong lĩnh vực chính trị: Công đoàn có vai trò to lớn trong việc góp phần xây dựng và nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa. Tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và Nhân dân, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân lao động, từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực thi pháp luật và để Nhà nước thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo sự ổn định về chính trị.

Trong lĩnh vực kinh tế: Công đoàn tham gia xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nhằm xoá bỏ quan liêu, bao cấp, củng cố nguyên tắc tập trung trên cơ sở mở rộng dân chủ. Góp phần củng cố những thành tựu kinh tế văn hoá và khoa học kỹ thuật đã đạt được trong những năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có lợi cho quốc kế dân sinh. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từng bước đưa kinh tế tri thức vào Việt Nam, góp phần nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc đẩy mạnh hoạt động của các thành phần kinh tế vẫn đảm bảo cho kinh tế quốc doanh giữ vị trí then chốt, đóng vai trò chủ đạo.

Trong lĩnh vực văn hoá - tư tưởng: Trong nền kinh tế nhiều thành phần, Công đoàn phát huy vai trò của mình trong việc giáo dục công nhân, viên chức và lao động nâng cao lập trường giai cấp, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động, phát huy những giá trị cao đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu những thành tựu tiên tiến của văn minh nhân loại góp phần xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.

Trong lĩnh vực xã hội: Công đoàn có vai trò trong tham gia xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, có nhãn quan chính trị, thực sự là lực lượng nòng cốt của khối liên minh công - nông - trí thức, làm nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân, là cơ sở vững chắc đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường sức mạnh của Nhà nước.

Bài 1: Đặc thù về tổ chức, hoạt động của Công đoàn trong hệ thống chính trị Việt Nam

Ông Trần Quang Huy - Chủ tịch Công đoàn Công thương Việt Nam (thứ 4 từ trái sang) trao Bằng khen cho công đoàn cơ sở đạt thành tích cao trong Chương trình "01 triệu sáng kiến". Ảnh: CĐCT

Tổ chức bộ máy Công đoàn Việt Nam có đặc thù riêng

Công đoàn có vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị, có nhiều đặc điểm khác biệt với các tổ chức chính trị - xã hội khác. Cụ thể, Công đoàn Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và NLĐ, Công đoàn có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị - xã hội và trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, đời sống của đất nước. Vì vậy, ngay từ bản Hiến pháp năm 1959, khi mà chưa có bất cứ tổ chức chính trị - xã hội nào được quy định trong Hiến pháp thì đã có quy định về Công đoàn Việt Nam tại Ðiều 10. Đến các bản Hiến pháp năm 1980, 1992, 2001, 2013 đều có một Điều riêng quy định về Công đoàn Việt Nam. Điều này cho thấy tổ chức Công đoàn có vị trí pháp lý đặc biệt so với các tổ chức chính trị - xã hội khác. Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung, vai trò của tổ chức Công đoàn phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, nhất là thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. So với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung vai trò, chức năng của Công đoàn Việt Nam trong việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, khẳng định Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của NLĐ, được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đây là nguyên tắc rất quan trọng của tổ chức Công đoàn, lần đầu tiên được khẳng định và thể hiện trong Hiến pháp (4).

Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội, đại diện của giai cấp công nhân và NLĐ. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Ðảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, Công đoàn Việt Nam vừa là tổ chức tập hợp NLĐ dưới sự lãnh đạo của Đảng, vừa trực tiếp và gián tiếp đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc.

Bên cạnh đó, Công đoàn là tổ chức đặc thù, là một bên trong quan hệ lao động, phải thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên và đột xuất, có số lượng đoàn viên lớn nhất so với các tổ chức đoàn thể khác và phải thực hiện nhiều nhiệm vụ mà các tổ chức chính trị - xã hội khác không có. Đoàn viên công đoàn có mặt ở nhiều thành phần, ngành nghề khác nhau (năm 2022 có trên 10,5 triệu đoàn viên với hơn 125.000 CĐCS) (5).

Ngoài ra, hoạt động công đoàn được tiến hành tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, không phải trên địa bàn dân cư như hầu hết các tổ chức chính trị - xã hội khác. Mô hình tổ chức kết hợp giữa công đoàn ngành và công đoàn địa phương. Số lượng đoàn viên và công đoàn cơ sở không tương quan tỷ lệ với quy mô dân số và diện tích trên từng địa bàn.

Công đoàn Việt Nam không chỉ là tổ chức đại diện cho các thành viên của tổ chức mình (đoàn viên công đoàn), mà theo Điều 10 Hiến pháp, Công đoàn là tổ chức đại diện cho NLĐ, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ. Công đoàn là tổ chức của NLĐ, là một bên trong quan hệ lao động (quan hệ pháp luật), có quyền đối thoại, thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể; là chủ thể duy nhất có quyền tổ chức, lãnh đạo đình công. Công đoàn Việt Nam có vai trò quan trọng trong xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cùng chủ doanh nghiệp phát động các phong trào thi đua nâng cao năng suất, chất lượng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống NLĐ.

Bài 1: Đặc thù về tổ chức, hoạt động của Công đoàn trong hệ thống chính trị Việt Nam
Lễ tuyên dương các điển hình xuất sắc tiêu biểu trong Chương trình “75 nghìn sáng kiến vượt khó, phát triển”. Ảnh: LAODONGCONGDOAN.VN

Một điểm đặc thù cần nhấn mạnh là, trên thế giới công đoàn là tổ chức phổ biến ở các quốc gia và vùng lãnh thổ, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển; ở đâu có quan hệ lao động, ở đó có công đoàn. Sứ mệnh của công đoàn là đại diện, bảo vệ quyền lợi NLĐ. Nhưng khác với công đoàn của tuyệt đại đa số các nước trên thế giới, Công đoàn Việt Nam vừa là tổ chức chính trị - xã hội, vừa là tổ chức đại diện NLĐ, mang đầy đủ bản chất và đặc trưng của tổ chức đại diện NLĐ, phù hợp với thông lệ quốc tế. Công đoàn có quan hệ rộng rãi với công đoàn nhiều nước trên thế giới và là thành viên của nhiều tổ chức Công đoàn quốc tế và khu vực.

Tổ chức bộ máy Công đoàn Việt Nam có đặc thù riêng. Điều 7 Luật Công đoàn (2012) và Điều 7 Điều lệ Công đoàn Việt Nam khóa XII (2020) xác định hệ thống tổ chức Công đoàn gồm có: (1) Cấp Trung ương: Tổng LĐLĐ Việt Nam. (2) Cấp tỉnh, ngành Trung ương gồm: LĐLĐ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Công đoàn ngành Trung ương và tương đương. (3) Cấp trên trực tiếp cơ sở gồm: LĐLĐ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; công đoàn ngành địa phương; công đoàn các Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao; công đoàn Tổng công ty; công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở khác. (4) Cấp cơ sở gồm: công đoàn cơ sở, nghiệp đoàn cơ sở.

Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động, Công đoàn Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; cơ quan lãnh đạo công đoàn các cấp do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Công đoàn Việt Nam là đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của mỗi cấp công đoàn là đại hội công đoàn cấp đó. Cơ quan lãnh đạo của công đoàn mỗi cấp giữa hai kỳ đại hội là ban chấp hành. Nghị quyết của công đoàn các cấp được thông qua theo đa số và phải được thi hành nghiêm chỉnh.

Trong mối quan hệ với Đảng, tính độc lập về mặt tổ chức của Công đoàn thể hiện ở chỗ: Công đoàn xây dựng tổ chức và hoạt động phù hợp với điều lệ của tổ chức Công đoàn Việt Nam trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Công đoàn các cấp. Đảng không can thiệp trực tiếp vào công việc của Công đoàn. Ở các cấp công đoàn cơ cở, Đảng không cử cán bộ làm công tác Công đoàn, mà Đảng chỉ giới thiệu những đảng viên tốt để đại hội công đoàn các cấp lựa chọn và bầu vào các cương vị lănh đạo Công đoàn.

Trong mối quan hệ với Nhà nước, Công đoàn Việt Nam có mối quan hệ b́ình đẳng, hợp tác, tôn trọng, phối hợp chặt chẽ với nhau trong các mặt hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu chung là: “Dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Nhà nước luôn tạo cho tổ chức Công đoàn về điều kiện vật chất, ban hành các văn bản pháp lý tạo cơ sở pháp lý cho Công đoàn hoạt động. Giữa Công đoàn và Nhà nước không có sự đối lập. Công đoàn Việt Nam luôn cộng tác đắc lực với Nhà nước, góp phần xây dựng chính quyền Nhà nước không ngừng lớn mạnh. Công đoàn là người cung cấp, bồi dưỡng, rèn luyện những cán bộ ưu tú cho Đảng và Nhà nước.

Tổ chức Công đoàn Việt Nam có hệ thống tài chính độc lập với nguồn ngân sách nhà nước: Đây là điểm khác biệt rõ nhất so với các tổ chức chính trị - xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Để tạo điều kiện cho Công đoàn có nguồn lực cần thiết nhằm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp, từ năm 1957, Luật Công đoàn và Nghị định số 188-TTg ngày 9/4/1958 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Công đoàn đã quy định tổ chức Công đoàn được phép trích lập Quỹ Công đoàn riêng và ghi rõ một trong các nguồn thu của tổ chức Công đoàn là 2% kinh phí công đoàn (khoản đóng góp của cơ quan, tổ chức doanh nghiệp bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho NLĐ). Công đoàn có hệ thống quản lý tài chính theo ngành dọc, tự thu kinh phí để tổ chức các hoạt động đại diện, chăm lo, bảo vệ các thành viên của tổ chức mình và NLĐ nói chung; trang trải toàn bộ lương cán bộ công đoàn chuyên trách, hỗ trợ cán bộ công đoàn không chuyên trách và kinh phí tổ chức hoạt động. Công đoàn Việt Nam không trực tiếp lấy nguồn từ ngân sách nhà nước chi cho hoạt động, phù hợp với thông lệ chung của công đoàn các nước trên thế giới.

Điều 26 Luật Công đoàn (2012) quy định tài chính công đoàn gồm các nguồn thu: (i) Đoàn phí công đoàn do đoàn viên công đoàn đóng theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam (01% tiền lương hằng tháng); (ii) kinh phí công đoàn do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng Bảo hiểm xã hội cho NLĐ; (iii) ngân sách nhà nước cấp hỗ trợ; (iv) nguồn thu khác từ hoạt động văn hóa, thể thao, hoạt động kinh tế của Công đoàn; từ đề án, dự án do Nhà nước giao; từ viện trợ, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.

Tài chính công đoàn được sử dụng cho hoạt động thực hiện quyền, trách nhiệm của Công đoàn và duy trì hoạt động của hệ thống công đoàn như: Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho NLĐ; tổ chức hoạt động đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ; phát triển đoàn viên công đoàn, thành lập công đoàn cơ sở, xây dựng công đoàn vững mạnh.

Tài chính công đoàn còn được sử dụng cho hoạt động tổ chức phong trào thi đua do Công đoàn phát động; Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn, đào tạo, bồi dưỡng người lao động ưu tú tạo nguồn cán bộ cho Đảng, Nhà nước và tổ chức Công đoàn; Tổ chức hoạt động văn hoá, thể thao, du lịch cho NLĐ; Tổ chức hoạt động về giới và bình đẳng giới; Thăm hỏi, trợ cấp cho đoàn viên công đoàn và NLĐ khi ốm đau, thai sản, hoạn nạn, khó khăn, tổ chức hoạt động chăm lo khác cho NLĐ; động viên, khen thưởng NLĐ, con của NLĐ có thành tích trong học tập, công tác; trả lương cho cán bộ công đoàn chuyên trách, phụ cấp trách nhiệm cho cán bộ công đoàn không chuyên trách; chi cho hoạt động của bộ máy công đoàn các cấp; các nhiệm vụ chi khác.

Công đoàn thực hiện quản lý, sử dụng tài chính công đoàn theo quy định của pháp luật và quy định của Tổng LĐLĐ Việt Nam.

Đặc thù về hoạt động của Công đoàn Việt Nam

Công đoàn Việt Nam có hai tính chất: Đó là tính giai cấp của giai cấp công nhân và tính chất quần chúng. Từ khi ra đời Công đoàn đã mang đầy đủ tính chất của giai cấp công nhân. Tính chất đó được biểu hiện trong tổ chức và hoạt động công đoàn, được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, luôn trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và dân tộc. Công đoàn là trung tâm tập hợp, đoàn kết đội ngũ NLĐ nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích của giai cấp công nhân và NLĐ. Biểu hiện tính quần chúng của Công đoàn đó là: Công đoàn kết nạp đông đảo NLĐ vào Công đoàn, không phân biệt nghề nghiệp, thành phần, dân tộc, tôn giáo... Hai tính chất này quan hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, thể hiện bản chất của Công đoàn Việt Nam. Từ hai tính chất này, cùng với vai trò, sứ mệnh lịch sử được giao phó, Công đoàn Việt Nam có một số nét đặc thù về hoạt động.

Đó là, Công đoàn Việt Nam đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, NLĐ, góp phần xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.

Đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích đoàn viên, NLĐ được xác định là tính đặc thù, là nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt trong hoạt động của các cấp công đoàn, nhất là ở cấp cơ sở, góp phần cải thiện đời sống cho đoàn viên và NLĐ. Luật Công đoàn năm 2012 khẳng định: Công đoàn là tổ chức của giai cấp công nhân và NLĐ, đại diện cho họ để trước hết là “chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng” của mọi NLĐ trong mọi thành phần kinh tế. Chức năng bảo vệ ấy gồm cả nền tảng pháp lý và những nỗ lực cụ thể. Đó là việc tham gia xây dựng các quy phạm pháp luật có liên quan đến điều chỉnh quan hệ lao động, các văn bản dưới luật nhưng rất quan trọng như TƯLĐTT - một trong những cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của NLĐ trong doanh nghiệp. Cũng từ đây, bằng trực cảm của mình, NLĐ nhận thấy mối quan hệ tự nhiên, gắn bó với tổ chức Công đoàn đang đại diện cho quyền và lợi ích của họ.

Từ đó, góp phần cải thiện quan hệ lao động trong các doanh nghiệp. Nhiều nơi, cán bộ công đoàn đã bám sát cơ sở, thông tin kịp thời diễn biến phát sinh ở cơ sở, nhất là ở những doanh nghiệp gặp khó khăn, chủ bỏ trốn, doanh nghiệp phá sản, giải thể, ngừng hoạt động. Tích cực phối hợp với người sử dụng lao động, cơ quan nhà nước có thẩm quyền ổn định tư tưởng, giải quyết kiến nghị, bức xúc trong công nhân, lao động... Trong quá trình tổ chức hoạt động, các cấp công đoàn đã thường xuyên tích cực, chủ động phối hợp với lãnh đạo địa phương tập trung giải quyết các cuộc ngừng việc tập thể có quy mô lớn, phức tạp, sớm ổn định tình hình quan hệ lao động, đảm bảo trật tự, an ninh.

Công đoàn Việt Nam luôn đi đầu trong phát động, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước trong công nhân, viên chức, lao động.

Phong trào thi đua yêu nước và công tác thi đua, khen thưởng đã được tổ chức công đoàn chú trọng ngay từ khi Công đoàn Việt Nam ra đời… Trong những năm đổi mới, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã phát động nhiều phong trào thi đua với sự chuyển biến tích cực, huy động hàng triệu lượt người tham gia.

Các cấp công đoàn đã cụ thể hóa phong trào thi đua “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”; phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; phong trào “Xanh - Sạch - Đẹp, Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động”, phong trào văn hóa, thể thao; phong trào học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; cuộc vận động thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí; đặc biệt đã gắn chặt các chỉ tiêu thi đua yêu nước với Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Động viên, cổ vũ đoàn viên, NLĐ đăng ký hoàn thành các phong trào thi đua với giá trị làm lợi hàng chục ngàn tỷ đồng, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (6).

Đặc biệt, tại Đại hội XII Công đoàn Việt Nam (nhiệm kỳ 2018 - 2023), Công đoàn đã phát động phong trào cùng Chính phủ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và phát triển bền vững đất nước. Tiếp tục tổ chức phong trào thi đua lao động sáng tạo trong từng doanh nghiệp, từng ngành và toàn quốc (tháng cao điểm); đồng thời có những phần thưởng đáng kể để khích lệ NLĐ hăng say trong lao động sản xuất góp phần vào tăng trưởng kinh tế.

Công đoàn Việt Nam hoạt động với vai trò trung tâm xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức.

Trong liên minh công, nông, trí thức, giai cấp công nhân là nòng cốt, thông qua sự gương mẫu giai cấp, sức mạnh của công nhân hiện đại… Tổ chức Công đoàn là đại diện của công nhân, NLĐ, trong đó có trí thức, tất yếu có trách nhiệm xây dựng và củng cố liên minh công, nông, trí thức.

Trong thực tế, liên minh công, nông, trí thức thông qua các hình thức đoàn kết, liên kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau… giữa các giai tầng này trên các lĩnh vực, nhất là hoạt động kinh tế - xã hội. Tổ chức Công đoàn có nhiều thuận lợi để góp phần xúc tiến, tăng cường các hình thức liên minh. Bởi vì, tổ chức Công đoàn có hệ thống rộng lớn, ở 4 cấp, nhất là công đoàn cơ sở được hình thành ở hầu hết các đơn vị của công nhân, nông dân, trí thức như cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã và liên minh hợp tác xã…; trong khu vực nhà nước và ngoài nhà nước; ở các ngành, các cấp và địa phương; tại các đơn vị Quân đội và Công an nhân dân…

Liên minh công, nông, trí thức ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng hiện nay ở nước ta, trong hoạt động kinh tế, liên minh sâu rộng hơn cả và có những mô hình ngày càng được hoàn thiện và nhân rộng như: Liên kết 4 nhà (nhà nông, doanh nghiệp, khoa học, Nhà nước), liên minh ở doanh nghiệp… Ở những nơi áp dụng các mô hình này, nếu có tổ chức Công đoàn Việt Nam làm tốt các chức năng của mình, động viên được phong trào lao động sẽ góp phần trực tiếp tăng cường liên minh, liên kết giữa công nhân, nông dân và trí thức, vừa phát triển được kinh tế - xã hội nói chung, vừa cải thiện được đời sống vật chất, tinh thần của NLĐ, của công nhân, nông dân, trí thức nói riêng. Từ đó có thể thấy được nét đặc thù riêng của tổ chức công đoàn trong hoạt động của mình với vai trò trung tâm xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức.

Như vậy là, với vị trí được xác lập trong hệ thống chính trị Việt Nam, tổ chức Công đoàn có những đặc thù về tổ chức, hoạt động rất khác biệt với các tổ chức chính trị, xã hội khác.

Bài: TS. Nhạc Phan Linh - Phó Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn

Xem phiên bản di động